Hôm nay,  

Bước Chân Chánh Niệm: Con Đường Tỉnh Thức Trong Dòng Lịch Sử 50 Năm Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ

07/04/202521:19:00(Xem: 3051)

TAM THUONG DINH - 50 NAM

Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.

Phật giáo không đến phương Tây bằng một cuộc chinh phục. Đó không phải là một giáo điều, không phải một tôn giáo đến để cạnh tranh hay chiếm lĩnh. Phật giáo đến như một làn gió mát, như một người bạn đồng hành, nhẹ nhàng đặt một bàn tay trên vai những con người đang hoang mang giữa bao biến động của thời đại. Phật giáo không bảo ai phải tin vào điều gì, không yêu cầu ai phải thay đổi ngay lập tức, mà chỉ nhắc rằng chúng ta có thể dừng lại một chút, có thể hít vào một hơi thở sâu, có thể bước chậm rãi hơn một chút, và có thể lắng nghe trái tim mình một lần nữa.

Ngoại trừ thời ông Trần Trọng Khiêm[1], gần bảy mươi năm trước, khi những người Việt đầu tiên, cả Tăng[2] lẫn tục, đặt chân lên đất Mỹ, mang theo quê hương trong lòng, mang theo tiếng kinh chiều của những ngôi chùa nhỏ, mang theo hình bóng của mẹ cha, của những con đường làng với tiếng chuông chùa ngân buổi sớm. Nhưng quê hương khi ấy cũng là một vết thương. Những đứa con xa xứ lạc lõng giữa một thế giới xa lạ, giữa một nền văn hóa mà đôi khi không biết cách để hòa nhập, để hiểu. Và rồi, giữa những chông chênh ấy, có những người đã tìm về với Phật pháp, tìm về với hơi thở, với sự an trú trong hiện tại, như một cách để chữa lành.

Phật giáo Việt Nam vào xã hội Hoa Kỳ cũng thế, tùy duyên bất biến, tùy thuận chúng sanh mà ở lại Hoa Kỳ dạy vào những trường đại học nổi tiếng ở Mỹ[3]; đó là hai vị Tổ sư có công mang Phật giáo Việt Nam vào Hoa Kỳ sớm nhất: cố Hòa Thượng Thích Thiên Ân[4] và Thiền Sư Nhất Hạnh. Hai Thầy như dòng chảy của hai dòng sông lớn, Colorado và Mississippi tại Mỹ, đã lưu chuyển ngọn đèn chánh pháp từ Đông sang Tây từ Nam chí Bắc.

Giữa dòng chảy ấy, một trong những nhân tố quan trọng nhất đưa Phật giáo Việt Nam đến với Hoa Kỳ, và đồng thời lan rộng ra toàn thế giới, chính là Thiền Sư Nhất Hạnh. Thầy không chỉ mang đến một phương pháp thực tập, mà là một cách nhìn, một con đường sống tỉnh thức, không tách biệt với đời thường mà hòa vào từng hơi thở, từng bước chân của con người hiện đại. Những năm 1960, khi Thiền Sư Nhất Hạnh đến phương Tây để kêu gọi hòa bình, Thầy đã gieo một hạt giống mới – hạt giống của chánh niệm – giữa lòng một thế giới đang ngổn ngang với chiến tranh, bạo lực và nỗi hoang mang hiện sinh.

Thầy không mang đến nước Mỹ một Phật giáo xa lạ hay mang tính học thuật khô cứng. Thầy đến không phải để đưa ra những lý thuyết trừu tượng mà để trao truyền một con đường sống động và thực tiễn. Giáo lý mà Thầy giảng dạy không tách rời với những nguyên lý nền tảng của Đạo Phật – về Nghiệp, về Luân Hồi, về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo – mà chính là sự thể hiện trọn vẹn những giáo pháp ấy trong từng giây phút của đời sống. Lấy pháp môn “Hiện pháp lạc trú” làm một điển hình. Đó là phương pháp thực tập chánh niệm phổ thông và Thầy đã giới thiệu thành công trong xã hội Tây phương. An trú trong hiện tại, được Thiền Sư Thích Nhất Hạnh giảng dạy như một con đường đưa tới an lạc và làm cho đời bớt khổ. Đó là lối sống trọn vẹn trong từng khoảnh khắc, thấy rõ bản chất vô thường và không bám víu vào khái niệm ngã pháp. An trú trong hiện tại là an trú trong thực tại chân như, nơi mọi vọng tưởng lắng đọng, và tâm an nhiên tự tại, giải thoát khỏi khổ đau và phiền não.

Thầy đã dạy mọi người cách đi, đứng, nằm, ngồi (bốn oai nghi qua bốn tác phẩm tiêu biểu) [5], và đặc biệt là cách thở như trong cuốn Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức [6]. Nghe thì thật đơn giản, nhưng trong sự đơn giản ấy là cả một con đường. Một hơi thở có thể thay đổi một cuộc đời, nếu ta thực sự có mặt với nó. Một bước chân có thể mở ra một chân trời, nếu ta thực sự ý thức về nó. Thầy không bảo ai phải từ bỏ điều gì, không ép ai phải theo một con đường nhất định, chỉ nhắc rằng chúng ta có thể bắt đầu từ chính nơi ta đang đứng, với chính những gì ta đang có.

Và rồi, chánh niệm đã trở thành một phần của phương Tây, như một mảnh ghép mà không ai nghĩ rằng nó có thể phù hợp đến vậy. Những thiền viện mọc lên, những buổi thực tập chánh niệm xuất hiện trong trường học, trong bệnh viện, trong các tập đoàn công nghệ, cả trong quân đội v.v… Người ta bắt đầu hiểu chánh niệm không phải là một điều gì xa lạ, không phải là một nghi lễ của một nền văn hóa khác, mà là một điều tự nhiên, một bản năng mà ta đã đánh mất giữa những bộn bề của đời sống.

Năm mươi năm là một hành trình của Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, nhưng đồng thời cũng là một hành trình của sự chuyển hóa. Chánh niệm không những đã giúp mỗi cá nhân quay về với chính mình mà còn là một phương pháp chữa lành tập thể. Những vết thương của chiến tranh, của lưu vong, của sự chia cắt lịch sử – tất cả có thể được chuyển hóa bằng sự thực tập tỉnh thức, bằng sự lắng nghe sâu, bằng lòng từ bi mở rộng.

Hơi thở chánh niệm giúp chúng ta tìm được sự bình an trong giây phút hiện tại, đồng thời giúp tháo gỡ những nút thắt của quá khứ. Trong những khóa tu dành cho người Mỹ gốc Việt, những thế hệ thứ hai, thứ ba có cơ hội lắng nghe cha mẹ, ông bà kể về những mất mát mà trước đây họ chưa bao giờ có cơ hội để giãi bày. Chánh niệm trở thành một cầu nối giữa các thế hệ, giữa quá khứ và hiện tại, giúp những vết thương của lịch sử không còn tiếp tục di truyền qua những thế hệ mai sau.

Nhưng không chỉ dừng lại ở cộng đồng người Việt, chánh niệm đã trở thành một phương pháp trị liệu cho cả xã hội phương Tây. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thực tập chánh niệm giúp giảm căng thẳng, lo âu, cải thiện sức khỏe tâm thần và thậm chí góp phần vào việc giảm bạo lực trong cộng đồng. Nhiều báo cáo khoa học cho thấy những chương trình chánh niệm trong trường học giúp giảm đáng kể tỷ lệ bạo lực học đường, đồng thời tăng cường khả năng tập trung và học tập của học sinh. Nếu chiến tranh, bạo lực và sự đứt gãy xã hội là biểu hiện của một tâm thức đầy bất an và vọng động, thì chánh niệm là một phương thuốc trị liệu. Nó giúp từng cá nhân quay về với chính mình, nhưng đồng thời cũng giúp cả một xã hội biết cách dừng lại, biết cách lắng nghe, biết cách sống chậm hơn để nhìn rõ những gì đang xảy ra xung quanh.

Năm mươi năm qua, Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ đã đi qua nhiều thăng trầm. Nhưng có lẽ, hành trình ấy vẫn chỉ mới bắt đầu. Bởi vì, con đường chánh niệm không có điểm đến. Chỉ có những bước chân, và mỗi bước chân đều có thể là một sự khởi đầu mới. Nếu có một điều gì đáng để nhớ sau nửa thế kỷ, có lẽ đó chính là bài học đơn giản nhất: Chúng ta có thể dừng lại, ngay tại đây. Ta có thể thở, ngay lúc này. Và ta có thể bước đi, với tất cả sự tỉnh thức, với tất cả sự yêu thương.

Và như thế, Phật giáo Việt Nam vẫn còn đó, không phải như một di sản của quá khứ, mà như một con đường của hiện tại và tương lai. Một con đường luôn mở rộng, cho bất cứ ai sẵn sàng cất bước [7], với một hơi thở nhẹ nhàng, và một trái tim rộng mở.


Tâm Thường Định

_________________

[1] ​Trần Trọng Khiêm, sinh năm 1821 tại làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), được xem là người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ vào năm 1849 tại thành phố New Orleans, tiểu bang Louisiana.

[2] Năm 1960, Hòa thượng Thích Quảng Liên tốt nghiệp Thạc sĩ (MA) tại Đại học Yale, Hoa Kỳ. Sau khi hoàn thành chương trình học, ngài trở về Việt Nam và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, như Tổng vụ trưởng Tổng vụ Pháp sự và Hiệu trưởng hệ thống Trường Bồ Đề trên toàn quốc.

[3] Thiền Sư Thích Nhất Hạnh từng giảng dạy tại Đại học Princeton và Đại học Columbia, chia sẻ về Phật học, chánh niệm và đạo lý từ bi. Trong thời gian này, Thiền sư đã góp phần giới thiệu Phật giáo ứng dụng và thực tập chánh niệm đến cộng đồng quốc tế.

[4] Hòa thượng Thích Thiên Ân sang Hoa Kỳ vào năm 1966 và Ngài giảng dạy tại Đại học California, Los Angeles (UCLA), góp phần giới thiệu Phật giáo Việt Nam và thiền học đến với sinh viên và giới học giả phương Tây. Hòa thượng cũng thành lập Trung tâm Thiền tại Los Angeles, tạo nền tảng cho sự phát triển của Phật giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Sau đó cố Hoà Thượng Thích Mãn Giác (Thi sĩ Huyền Không) tiếp nối Thầy.

[5] Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức – Hướng dẫn thực tập chánh niệm trong mọi sinh hoạt hàng ngày, từ thở, đi, đứng, nằm, ngồi đến ăn uống và làm việc. An Lạc Từng Bước Chân – Tập trung vào nghệ thuật đi trong chánh niệm, biến từng bước chân thành một hành trình an lạc và sâu sắc. Giận – Mặc dù nói về cách chuyển hóa cảm xúc giận dữ, sách cũng hướng dẫn thực tập chánh niệm trong mọi oai nghi để nhận diện và ôm ấp cảm xúc. Bước Tới Thảnh Thơi – Một cuốn sách nhỏ, đơn giản, tập trung vào thực tập đi trong chánh niệm, hướng dẫn cách đi bộ như một pháp tu sâu sắc để tìm sự thảnh thơi và an lạc.

[6] Phép Lạ của Sự Tỉnh Thức của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một cuốn sách hướng dẫn thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày. Qua những bài học giản dị và sâu sắc, Thiền sư chỉ bày cách thở, đi, đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm để an trú trong hiện tại, nuôi dưỡng sự an lạc và chuyển hóa khổ đau. Sách nhấn mạnh rằng mỗi khoảnh khắc đều có thể trở thành phép lạ nếu ta sống với sự tỉnh thức và trân trọng.

[7]  An Lạc Từng Bước Chân của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một cuốn sách dạy về nghệ thuật đi trong chánh niệm. Thầy hướng dẫn cách bước đi thảnh thơi, ý thức từng nhịp chân để tiếp xúc sâu sắc với hiện tại, nuôi dưỡng bình an và hạnh phúc. Mỗi bước chân trở thành một cơ hội để trở về với chính mình, buông bỏ lo lắng, và hòa nhập với sự sống nhiệm màu của đất trời.

Trích trong tuyển tập “50 Năm Nhìn Lại PGVN tại HK, 1975-2025” Ấn bản song ngữ, phát hành nhân Đại lễ Phật Đản do GHPGVNTNHK tổ chức tại DC, tháng 4, 2025.

Chủ biên: Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu và Thích Từ Lực 

***

MINDFUL STEPS: A PATH OF AWAKENING
IN THE 50-YEAR HISTORY OF VIETNAMESE BUDDHISM
IN THE UNITED STATES

 

Reflecting on fifty years of Vietnamese Buddhism in the United States, it is evident that the journey of mindful awakening emerged not from a preordained blueprint, but from the convergence of circumstances, intentions, and the quest for sanctuary amidst numerous upheavals. It resembles a stream navigating the fluctuations of history, flowing toward a far horizon and ultimately converging with the vast ocean. From seeds planted in quiet devotion, blossoms eventually grew in Western cities, which are usually considered places of reason and science, speed and consumption, or people who can’t stand anything vaguely abstract. Even within that complex realm, teachings on mindfulness—regarding breathing and smiling, and reconnecting with ourselves—have proliferated, alleviating the aridity in our hearts like the initial summer rain.

Buddhism did not arrive in the West through conquest. It is neither a doctrine nor a religion aspiring to compete or conquer. Buddhism emerged as a refreshing presence, akin to a companion softly placing a hand on the shoulders of individuals disoriented by the tumult of the time. It does not require someone to adhere to particular beliefs, nor does it insist on prompt transformation. It just serves as a reminder to halt, inhale deeply, decelerate our rhythm, and attune ourselves to our hearts once more.

Aside from the time of Mr. Trần Trọng Khiêm[1], nearly seventy years ago, the earliest Vietnamese—both monastics[2] and laypeople—who arrived in America brought with them the essence of their homeland, including the evening chants of small temples, memories of their parents, and the village paths resonating with the morning chime of temple bells. Nonetheless, that homeland was also a source of anguish. The Vietnamese youngsters, displaced from their homeland, found themselves adrift in an unfamiliar culture that they struggled to assimilate into and comprehend properly. Amidst that precariousness, some returned to the Buddha’s teachings, focusing on the breath and residing in the present now as a means of healing.

Vietnamese Buddhism in the United States has progressed similarly—”tùy duyên bất biến, tùy thuận chúng sanh,” adeptly changing while keeping faithful to its core—as it established itself in America and integrated into prominent colleges. The late Hòa Thượng Thích Thiên Ân[3] and Thiền Sư Nhất Hạnh[4] were two prominent patriarchs who significantly contributed to the introduction of Vietnamese Buddhism to the United States in its formative years. Similar to the confluence of the Colorado and Mississippi rivers, these two esteemed educators transmitted the light of the Dharma over East and West, as well as North and South.

Among the influential individuals who introduced Vietnamese Buddhism to the United States and later facilitated its global dissemination was Thiền Sư Nhất Hạnh. Thầy introduced a practice method and provided a novel perspective—a pathway of enlightened existence, intricately integrated into the quotidian life, encompassing every breath and step of contemporary individuals. In the 1960s, when Thầy arrived in the West to promote peace, he sowed a fresh seed—the seed of mindfulness—in a world entrenched in conflict, violence, and existential dread.

Thầy did not introduce a distant or too scholarly variant of Buddhism to America. Instead, he presented tangible, pragmatic instructions rather than theoretical abstractions. The Dharma he imparted was intrinsically linked to the fundamental tenets of Buddhism—Karma, Rebirth, the Four Noble Truths, and the Noble Eightfold Path. Instead, these principles were completely manifested in every minute of daily existence. Consider the practice of “Hiện pháp lạc trú”—experiencing contentment in the present moment—a sort of mindfulness that Thầy effectively introduced to Western civilization. Living in the present, as articulated by Thích Nhất Hạnh, is a pathway to tranquility and a solution for anguish. It is a method of fully experiencing each moment, comprehending the transient nature of existence, and relinquishing ties to oneself and external occurrences. Residing in the present entails engaging with the authentic essence of reality, where all errant thoughts dissipate, allowing the mind to repose in tranquil liberation, unencumbered by suffering and distress.

Thầy instructed individuals on the four postures—walking, standing, lying down, and sitting (Here are four connected books about the subjects)[5]—as articulated in four significant texts, and emphasized the importance of breathing, as detailed in The Miracle of Mindfulness [6]. Although it appears straightforward, this simplicity encompasses a comprehensive lifestyle. A single breath has the potential to transform a life, provided we are fully attentive to it. A single step can reveal an entirely new vista, provided we are truly cognizant of it. Thầy did not compel anyone to relinquish their belongings or adhere to a specific trajectory; he merely reminded us that we might commence precisely from our current position, utilizing exactly what we possess.

Mindfulness gradually integrated into Western society—an unforeseen element that aligned more seamlessly than anticipated. Meditation centers begin to proliferate. Mindfulness sessions have emerged in educational institutions, healthcare facilities, technology companies, and military organizations. Individuals began to perceive mindfulness not as an alien or ritualistic practice from a different culture, but as an inherent ability that we have neglected amidst the distractions of daily life.

Fifty years represents a voyage of Vietnamese Buddhism in the United States, as well as a process of transition. Mindfulness has facilitated individual self-discovery and functioned as a communal therapeutic approach. Injuries from conflict, relocation, and the disintegration of history can be ameliorated through intentional practice, attentive listening, and a compassionate disposition.

A conscious breath allows us to attain tranquility in the present while assisting in resolving the complexities of the past. During retreats for Vietnamese Americans, second and third generations have had the opportunity to listen to their parents and grandparents articulate losses that had previously remained unspoken. Mindfulness serves as a conduit between generations, linking the past and present and preventing historical traumas from perpetuating in future lineages.

However, it is not confined solely to the Vietnamese community; mindfulness has emerged as a therapeutic approach for Western society as a whole. Multiple research studies indicate that mindfulness practice diminishes stress and anxiety, enhances mental health, and may contribute to a reduction in community violence. Numerous scientific studies demonstrate that mindfulness programs at educational institutions substantially reduce instances of bullying and violence while simultaneously improving students’ concentration and academic performance. If war, violence, and social disintegration are the external manifestations of an agitated, unsettled psyche, then mindfulness serves as the remedy. It directs each person inside while simultaneously instructing society on the importance of pausing, listening, and decelerating to discern their surroundings accurately.

Over the past fifty years, Vietnamese Buddhism in America has undergone numerous fluctuations. Nevertheless, it appears that the adventure has merely commenced. The journey of mindfulness lacks a definitive conclusion—merely stages, each representing a potential new commencement. After fifty years, the most significant lesson to retain may be this: We may pause, at this moment. We are capable of respiration at this moment. We can proceed with full consciousness and limitless affection.

Vietnamese Buddhism persists—not alone as a relic of history, but as a pathway for contemporary and future existence. This pathway [7] is accessible to those who are prepared to proceed with a calm breath and an open heart.

Tâm Thường Định

Hawaii, HI on 3/10/2025

_________________________

Footnotes:

[1] Trần Trọng Khiêm, born in 1821 in Xuân Lũng Village, Lâm Thao Prefecture (now part of Phú Thọ Province), is considered the first Vietnamese person to set foot in the United States, arriving in 1849 in the city of New Orleans, Louisiana.


[2] In 1960, the Venerable Thích Quảng Liên completed his Master of Arts (MA) degree at Yale University in the United States. After finishing his studies, he returned to Vietnam and assumed various key positions within the Unified Buddhist Church of Vietnam, including serving as Director of the Department of Dharma Affairs and Principal of the nationwide Bodhi (Bồ Đề) School system.


[3] The Most Venerable Thích Thiên Ân arrived in the United States in 1966 and taught at the University of California, Los Angeles (UCLA), helping introduce Vietnamese Buddhism and Zen studies to Western students and scholars. He also established a meditation center in Los Angeles, laying the groundwork for the growth of Vietnamese Buddhism in America. Later, the late Venerable Thich Man Giac (the poet Huyen Khong) continued his teacher’s legacy.


[4] Zen Master Thich Nhat Hanh (1926–2022) was a Vietnamese monk and peace activist. Renowned for introducing mindfulness to the West, he penned over 100 books on meditation and compassion. Exiled from Vietnam during the war, he established Plum Village in France. His gentle teachings continue to inspire peace and harmony. He once taught at Princeton University and Columbia University, where he shared insights on Buddhist studies, mindfulness, and the principles of compassion. During this period, he played a key role in introducing applied Buddhism and mindfulness practice to the international community.


[5] The Miracle of Mindfulness – Guides the practice of mindfulness in all daily activities, from breathing, walking, standing, lying down, and sitting to eating and working. Peace Is Every Step – Focuses on the art of walking mindfully, turning each step into a peaceful and profound journey. Anger – Although addressing ways to transform anger, this book also provides guidance on practicing mindfulness in all postures to recognize and lovingly embrace emotions. Happy Steps (Bước Tới Thảnh Thơi) – A simple, concise book focusing on mindful walking, illustrating how walking can be a deep spiritual practice for finding ease and peace.

[6] The Miracle of Mindfulness by Zen Master Thich Nhat Hanh is a guide to practicing mindfulness in everyday life. Through simple yet profound lessons, he shows how to breathe, walk, stand, lie down, and sit in mindfulness to dwell in the present moment, cultivate peace, and transform suffering. The book emphasizes that every moment can become a miracle if we live with awareness and gratitude.

[7] Peace in Every Step by Zen Master Thich Nhat Hanh is a book that teaches the art of walking mindfully. He guides us to walk at ease, fully aware of each footstep, so we can deeply touch the present moment and cultivate peace and happiness. Every step becomes a chance to come home to ourselves, release worries, and merge with the wondrous life of heaven and earth.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành tâm điểm trong lĩnh vực khoa học căn bản (basic science), góp phần định hình những bước tiến mới của nhân loại. Điều này càng được khẳng định rõ ràng hơn qua các Giải Nobel Hóa học và Vật lý năm 2024 khi cả năm người đoạt giải đều có điểm chung: có liên quan đến AI.
Trong ba chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump liên tục cam kết rằng ông sẽ điều hành chính phủ liên bang như một công ty. Giữ đúng lời hứa, ngay khi tái đắc cử, Trump đã bổ nhiệm tỷ phú công nghệ Elon Musk đứng đầu một cơ quan mới thuộc nhánh hành pháp mang tên Bộ Cải Tổ Chính Phủ (Department of Government Efficiency, DOGE). Sáng kiến của Musk nhanh chóng tạo ra làn sóng cải tổ mạnh mẽ. DOGE đã lột chức, sa thải hoặc cho nghỉ việc hàng chục ngàn nhân viên liên bang, đồng thời tuyên bố đã phát hiện những khoản chi tiêu ngân sách lãng phí hoặc có dấu hiệu gian lận. Nhưng ngay cả khi những tuyên bố của Musk đang được chứng minh sai sự thật, việc tiết kiệm được 65 tỷ MK vẫn chỉ là một con số chiếm chưa đến 1% trong tổng ngân sách 6.75 ngàn tỷ MK mà chính phủ Hoa Kỳ đã chi tiêu trong năm 2024, và là một phần vô cùng nhỏ nhoi nếu so với tổng nợ công 36 ngàn tỷ MK.
Trong bài diễn văn thông điệp liên bang trước Quốc Hội vừa qua, tổng thống Donald Trump tuyên bố nước Mỹ sẽ “will be woke no longer” – khẳng định quan điểm chống lại cái mà ông ta coi là sự thái quá của văn hóa “woke.” Tuyên bố này phản ánh lập trường của phe bảo thủ, những người cho rằng “wokeness” (sự thức tỉnh) là sự lệch lạc khỏi các giá trị truyền thống và nguyên tắc dựa trên năng lực. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần hiểu đúng về bối cảnh lịch sử của thuật ngữ “woke” để không có những sai lầm khi gán cho nó ý nghĩa tiêu cực hoặc suy đồi.
Chỉ với 28 từ, một câu duy nhất trong Tu Chính Án 19 (19th Amendment) đã mở ra kỷ nguyên mới cho phụ nữ Hoa Kỳ. Được thông qua vào năm 1920, tu chính án này đã mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ sau hơn một thế kỷ đấu tranh không ngừng. Trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Điều I của Tu Chính Án 19 quy định: “Chính phủ liên bang và tiểu bang không được phép từ chối hay ngăn cản quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ vì lý do giới tính.” (Nguyên văn là “The right of citizens of the United States to vote shall not be denied or abridged by the United States or by any State on account of sex.”)
Trong bối cảnh chính quyền Trump đẩy mạnh chiến dịch loại bỏ các chương trình Đa dạng, Bình đẳng và Hòa nhập (DEI), vai trò của phụ nữ trong lịch sử không chỉ là một chủ đề cần được khai thác mà còn là một chiến trường tranh đấu cho công lý và sự công nhận. Bất chấp sự ghi nhận hạn chế và thường xuyên bị lu mờ trong các tài liệu lịch sử, phụ nữ đã và đang đóng góp không thể phủ nhận vào dòng chảy của lịch sử thế giới. Các nhà sử học nữ, dẫu số lượng không nhiều và thường bị đánh giá thấp trong giới học thuật truyền thống, đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu và đưa ra ánh sáng những câu chuyện về phụ nữ, từ đó mở rộng khung nhìn lịch sử và khẳng định vai trò của mình trong xã hội. Tháng Lịch sử Phụ nữ diễn ra vào tháng Ba hàng năm, đây không chỉ là dịp để tôn vinh những thành tựu của phụ nữ mà còn là lúc để xem xét và đánh giá những thách thức, cũng như cơ hội mà lịch sử đã và đang mở ra cho nửa thế giới này.
Theo báo điện tử vnexpress.net, từ ngày USAID tái hoạt động tại Việt Nam, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam để giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra, bao gồm việc rà phá bom mìn, xử lý vật liệu nổ, tìm kiếm binh sĩ mất tích và xử lý chất độc da cam/dioxin. Từ năm 2019, USAID đã hợp tác với Bộ Quốc phòng Việt Nam để xử lý khoảng 500.000 mét khối đất nhiễm dioxin tại căn cứ Không quân Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Vào tháng Giêng năm 2024, Hoa Kỳ cam kết bổ sung thêm 130 triệu Mỹ kim, nâng tổng kinh phí cho việc làm sạch dioxin lên 430 triệu. Không rõ bây giờ USAID bị đóng băng, số bổ sung cam kết ấy có còn. Ngoài việc giúp giải quyết các hậu quả chiến tranh, USAID đã đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WHO) và Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ.
Elizabeth Eckford, một trong chín học sinh da đen tiên phong bước vào trường Trung học Little Rock Central năm 1957, đã trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm trong cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tại Hoa Kỳ. Kể từ ngày khai trường lịch sử ấy đến nay, cuộc đấu tranh chống kỳ thị chủng tộc ở Hoa Kỳ đã đạt nhiều tiến bộ đáng kể, cho đến gần đây, Donald Trump lên nắm quyền và ra lệnh xóa bỏ toàn bộ chính sách Đa dạng, Công bằng và Hòa nhập (DEI) trên khắp đất nước thúc đẩy sự gia tăng của các hành vi thù ghét trên toàn quốc, câu chuyện của Eckford càng trở nên cấp thiết. Việt Báo đăng lại câu chuyện lịch sử này như lời nhắc nhở quyền bình đẳng không thể bị xem là điều hiển nhiên, và cuộc đấu tranh cho công lý, bình đẳng vào lúc này thực sự cần thiết.
Năm 1979, Steve cho xuất bản Indochina Newsletter là tài liệu liên quan đến các vi phạm nhân quyền tại Việt Nam sau ngày 30/4/1975, sau đổi tên thành Indochina Journal, rồi Vietnam Journal. Tôi và vài người Việt nữa đã cùng làm việc với Steve trong việc phối kiểm tin tức liên quan đến tù nhân lương tâm và dịch nhiều tài liệu của các phong trào đòi tự do dân chủ tại Việt Nam sang tiếng Anh, như Cao trào Nhân bản của Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Diễn đàn Tự do của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, các bài giảng về sám hối vào Mùa chay 1990 của linh mục Chân Tín, cũng như những tuyên cáo về tình trạng thiếu tự do tôn giáo của các Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ, Thượng tọa Thích Trí Siêu Lê Mạnh Thát; của Tổng Giám mục Nguyễn Kim Điền, Linh mục Nguyễn Văn Lý.
Mục tiêu ban đầu khi Tổng thống John F. Kennedy thành lập USAID trong cuộc chiến tranh lạnh với Nga vào năm 1961, nội các của ông không chỉ nhắm đến các viện trợ dân sự và nhân đạo mà còn mang mục đích sâu xa hơn: Đó là sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác sẽ bảo vệ cho nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Mục đích này vẫn không thay đổi sau hơn sáu thập niên hoạt động của USAID, qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Bởi lợi ích của nước Mỹ nằm khắp thế giới, những sự giúp đỡ, viện trợ trước mắt mang lại lợi ích chiến lược lâu dài cho nước Mỹ. Các nghiên cứu về USAID cho thấy quyền lực mềm của nước Mỹ do USAID đã mang lại thiện cảm về nước Mỹ, giúp hàng hóa, sản phẩm Mỹ được ưa chuộng tại các thị trường nội địa và gián tiếp giúp cho các tập đoàn Mỹ nhận được các hợp đồng kinh tế to lớn so với các đối thủ. Ngược lại, khi thiện cảm này bị mất đi, hay thậm chí bị ghét bỏ, làn sóng tẩy chay hàng Mỹ là lẽ đương nhiên. Những chương trình giáo dục, huấn nghệ cho trẻ em các nước chiến tranh
Doanh nhân Donald Trump đã khởi xướng trào lưu dân tuý và hai lần thắng cử tổng thống. Ngay khi xuất hiện lần đầu tiên trên chính trường để vận động tranh cử năm 2016, Trump không có tham vọng thu tóm quyền lãnh đạo Đảng Cộng hoà trong ý tưởng thù địch, mặc dù thể hiện nhiều quan điểm chống đối gay gắt. Ngược lại, ngày nay, "chủ thuyết Trump" chế ngự toàn diện mọi sinh hoạt của đất nước. Thực ra, khi nhìn lại hoạt động của Đảng trong thời hiện đại, đây là kết quả của một tiến trình dài nhằm tái định hình chiến lược bảo thủ mà Đảng đã đề ra vào những năm 1960.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.