Hôm nay,  

Chính Quyền Trump Và “Bóng Ma” Thời Andrew Jackson

18/04/202500:00:00(Xem: 1077)

Andrew
Lịch sử nhắc nhở rằng sự bất tuân hiến pháp từ tổng thống có thể dẫn đến những thảm kịch nhân đạo, như chính cộng đồng người Cherokee từng phải gánh chịu với Hành Trình trong Nước Mắt. (Nguồn: pixabay.com)
 
Phải làm gì với một Tổng thống Hoa Kỳ không tôn trọng luật pháp của chính quốc gia mình?
 
Vấn đề này nổi lên sau vụ việc chính quyền Trump phớt lờ phán quyết của tòa án liên bang, vẫn để các chuyến bay trục xuất người Venezuela khởi hành đến El Salvador dù tòa đã ra lệnh đình chỉ toàn bộ các chuyến bay đó. Hành động này cho thấy sự thách thức công khai đối với quyền lực tư pháp, và phản ánh sự thiếu hiểu biết (hoặc cố tình phớt lờ) nguyên tắc tam quyền phân lập, vốn là nền tảng của thể chế Hoa Kỳ. Theo Hiến pháp, một tổng thống không có quyền bác bỏ hay phớt lờ phán quyết của tòa án.
 
Không dừng lại ở đó, một trường hợp tương tự đã gây phẫn nộ trong cộng đồng học thuật: Bác sĩ Rasha Alawieh, giáo sư y khoa tại Đại học Brown, bị trục xuất về Lebanon chỉ vì bị nghi có thiện cảm với tổ chức Hezbollah, dù bà có thị thực làm việc hợp lệ và đã được tòa án ra lệnh chặn trục xuất.
 
Việc chính quyền Trump công khai bất chấp các quy trình hiến pháp khiến nhiều người liên tưởng đến một tiền lệ đáng ngại trong lịch sử Hoa Kỳ: cựu Tổng thống Andrew Jackson.
 
Ngay từ những ngày đầu của nền cộng hòa non trẻ, mối lo ngại này đã xuất hiện khi Jackson đắc cử tổng thống Hoa Kỳ vào năm 1828. Là hiện thân tiêu biểu của chủ nghĩa dân túy thời kỳ đầu, Jackson không hề che giấu sự ngờ vực sâu sắc đối với toàn bộ hệ thống liên bang. Với ông, quyền tự trị của từng tiểu bang đôi khi còn thiêng liêng hơn cả một nước Mỹ thống nhất.
 
Trump có nhiều điểm tương đồng với Jackson. Nếu Trump thường xuyên công kích Joe Biden, thì Jackson cũng từng tỏ rõ sự khinh miệt đối với người tiền nhiệm John Quincy Adams. Việc Trump nhắm vào các cơ quan như USAid và Bộ Giáo Dục gợi lại cuộc chiến không khoan nhượng mà Jackson phát động nhằm vào Ngân hàng Hoa Kỳ, vì cho rằng tổ chức tài chánh này “quá quyền lực, không phù hợp với một xã hội dân chủ.
 
Tuy nhiên, điểm giống nhau rõ nét nhất giữa hai vị Tổng thống không nằm ở thái độ hay lời lẽ, mà là ở hành động cưỡng chế trục xuất. Với Trump, là từng cá nhân, còn với Jackson là cả một cộng đồng.
 
Khi người Âu Châu thiết lập các thuộc địa tại Mỹ Châu, họ dùng triết lý của John Locke để hợp thức hóa cho việc chiếm đất: quyền sở hữu hợp pháp đối với đất đai thuộc về những ai trực tiếp canh tác trên đó. Vì thổ dân bản địa phần lớn là những tộc người sống du mục và dựa vào săn bắn, lý luận pháp lý “giả tạo” này đã tạo điều kiện cho người Âu Châu, và sau này là người Mỹ, ngang nhiên chiếm hữu đất đai, rồi tuyên bố đó là quyền của họ “theo luật.
 
Nhưng điều trớ trêu là cư dân ở khu vực Đông Nam Hoa Kỳ – bao gồm các bộ tộc Chickasaw, Choctaw, Creek, Seminole và Cherokee – lại chọn tin tưởng và hòa nhập theo cách của người Âu Châu. Họ lập thị trấn, mặc âu phục, cải đạo sang Thiên Chúa giáo và bắt đầu canh tác, thậm chí mua nô lệ về để làm việc đồng án. Dù vậy, họ vẫn bị gán cho cái tên nghe có vẻ tử tế mà thực ra đầy miệt thị: “năm bộ tộc văn minh” (five civilised tribes).
 
Nhưng rồi mọi nỗ lực hòa nhập với văn hóa phương Tây đều trở nên vô ích khi giới chủ đồn điền trồng bông ở Georgia phát hiện ra rằng các bộ tộc này đang sinh sống trên những vùng đất lý tưởng để canh tác bông; và sau đó còn phát hiện thêm rằng đất của người Cherokee có vàng. Thế là vào năm 1828, bang Georgia đơn phương tuyên bố quyền kiểm soát toàn bộ đất đai của năm bộ tộc.
 
Jackson, một “chiến binh diệt thổ” kỳ cựu và là người miền Nam ủng hộ mạnh mẽ quyền tự quyết của tiểu bang, đã thể hiện rõ sự đồng tình với hành động của Georgia.
 
Ngay từ bài diễn văn Tình Hình Đất Nước (State of the Union) đầu tiên, Jackson đã không che giấu ý định đẩy toàn bộ các bộ tộc Da Đỏ sang vùng sa mạc khô cằn phía tây sông Mississippi. Lời tuyên bố này khiến phe đối lập tại Quốc Hội nổi giận, cho rằng ông đang chà đạp lên những giá trị cốt lõi khai sinh ra nước Mỹ. Câu hỏi đặt ra là: những người bản địa ấy đã gây ra lỗi lầm gì đến mức bị đối xử như vậy? Họ đã sống định cư như nông dân – vậy cớ sao luật pháp không công nhận và bảo vệ quyền của họ trên chính mảnh đất họ đang canh tác?
 
Dù có đủ mọi lý do chính đáng để những con người này được tiếp tục sống trên mảnh đất của mình, thì đến cuối cùng, Đạo luật Di Dời (Removal Act) vẫn được thông qua vào năm 1830. Các bộ tộc Chickasaw, Choctaw và Creek thu dọn và rời đi trong lặng lẽ. Bộ tộc Seminole thì lựa chọn kháng cự nhưng cuối cùng cũng bị quân đội Hoa Kỳ đàn áp và đánh bại.
 
Tối Cao Pháp Viện vào cuộc, đối đầu với Tổng thống
 
Khác với các bộ tộc kia, người Cherokee quyết định đưa vụ việc ra Tối Cao Pháp Viện (TCPV). Dưới thời Chánh án John Marshall, tòa án cao nhất Hoa Kỳ đã  đã vươn lên trở thành cơ quan có quyền tối thượng phán quyết điều gì là hợp hiến, điều gì là vi hiến, kể cả trong các hành vi của tổng thống.
 
Tòa Bạch Ốc tỏ ra vô cùng khó chịu trước quyền lực của TCPV, cho rằng việc tòa án “nhúng tay” vào các quyết định hành pháp, dù phán quyết có lợi thì cũng đã là sự xâm phạm không thể chấp nhận vào quyền lực tổng thống. Lúc này, Chánh án Marshall được yêu cầu xem xét liệu tuyên bố chủ quyền của tiểu bang Georgia đối với lãnh thổ của người Cherokee có hợp hiến hay không.
 
Người Cherokee đã cố gắng khẳng định họ là một quốc gia độc lập. Tòa bác bỏ tuyên bố này, nhưng công nhận họ là “một cộng đồng tự trị” trong phạm vi lãnh thổ Hoa Kỳ, và do đó, tiểu bang Georgia không có quyền can thiệp vào vùng đất của họ.
 
Bất chấp quyết định từ TCPV, tiểu bang Georgia vẫn cố tình làm ngơ. Đến năm 1838, họ cho binh lính kéo đến, cưỡng chế từng gia đình Cherokee, đẩy họ rời khỏi vùng đất tổ tiên. Gần 13,000 người bước lên hành trình khổ nạn – sau này được gọi là “Hành Trình trong Nước Mắt” (Trail of Tears) – và khoảng một phần ba trong số đó đã vĩnh viễn nằm lại trên đường vì đói khát, bệnh tật và kiệt sức.
 
Một sĩ quan Hoa Kỳ hồi tưởng: “Tôi đã đi qua Nội Chiến, đã thấy người ta bị bắn tan xác, đã đứng giữa cảnh máu đổ ngập chiến trường; nhưng cuộc trục xuất người Cherokee mới là thứ tàn nhẫn nhất mà tôi từng chứng kiến trong đời.
 
Trong khi đó, Jackson thì rất khoái trá, hả hê; còn giễu cợt Marshall rằng phán quyết của ông “chết từ trong trứng nước” thì lấy gì để thực thi công lý. Thủ lãnh người Cherokee, John Ross, một người gốc Scotland, đã đúc kết nỗi oan khuất của bộ tộc mình rằng: “Tội lỗi duy nhất của chúng tôi là sở hữu mảnh đất mà kẻ khác thèm muốn.
 
Người Cherokee đã hiểu ra một sự thật cay nghiệt: nếu tổng thống cố tình làm ngơ, thì ngay cả Hiến Pháp Hoa Kỳ cũng không thể bảo vệ người vô tội.
 
Đó không chỉ là một chương lịch sử bi thảm, mà là bài học cảnh tỉnh cho người dân Greenland, Mexico, Canada, và cho cả người dân Hoa Kỳ hôm nay. Họ có thể cũng sẽ rơi vào vòng xoáy bất công dưới một chính quyền không còn tôn trọng luật pháp, và cũng đặt kỳ vọng vào tòa án như chốn nương tựa cuối cùng.

Nguyên Hòa biên dịch
Nguồn: “Trump’s America is facing an Andrew Jackson moment – and it’s bad news for the constitution” được đăng trên trang TheConversation.com. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.