Hôm nay,  

Hội Thảo Sách Quan Âm Tế Độ: GS Nguyễn Văn Sâm Chú Giải

08/09/202222:40:00(Xem: 6431)

 

Hội Thảo Sách Quan Âm Tế Độ:

GS Nguyễn Văn Sâm Chú Giải

 

Nguyên Giác

 

Viện Việt Học tại trụ sở Westminster, California, hôm 3/9/2022 đã có buổi Hội thảo giới thiệu công trình chú giải sách Nôm nhan đề Quan Âm Tế Độ -- do GS Nguyễn Văn Sâm phiên âm và chú giải dựa vào bản khắc hơn một thế kỉ trước. Bản gốc là Quan Âm Diệu Thiện (Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Kinh), theo bản khắc năm Mậu Thân 1908 năm thứ 34 niên hiệu Quang Tự (nhà Thanh). Do Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Hiền Tâm phiên âm từ chữ Nôm ra quốc ngữ.

 

blank

Từ trái: GS Đỗ Quý Toàn, GS Trần Huy Bích, GS Nguyễn Văn Sâm

 

 

Mở đầu chương trình, MC là chị Nguyễn Kim Ngân, cũng là Giám Đốc Viện Việt Học, nói rằng sau hơn 2 năm Viện ngưng các buổi sinh hoạt đông người vì đại dịch COVID-19, bây giờ mở đầu các công trình là tác phẩm Quân Âm Tế Độ do GS Nguyễn Văn Sâm phiên âm và chú giải. Một điểm đặc biệt của chương trình sẽ là hiện diện của 2 vị Giáo sư uyên thâm khác -- GS Đỗ Quý Toàn và GS Trần Huy Bích -- sẽ nói chuyện về tác phẩm độc đáo này. Dự kiến GS Đỗ Quý Toàn sẽ giới thiệu tác phẩm Quan Âm Diệu Thiện (mà GS Nguyễn Văn Sâm đặt nhan đề Quan Âm Tế Độ), và GS Trần Huy Bích sẽ giới thiệu về đóng góp của GS Nguyễn Văn Sâm với việc bảo toàn văn học chữ Nôm. GS Trần Huy Bích được GS Đỗ Quý Toàn nhường nói trước, vì lý do nội dung của sách sẽ cần nói dài dòng hơn.

 

GS Trần Huy Bích nói rằng tiếng Việt bây giờ có chữ quốc ngữ rất tiện lợi, dễ học, dễ nhớ. Nhưng mỗi thế hệ, trong học giới cũng cần có một số học giả về chữ Nôm, có thể là 5% dân số Việt nên chuyên ngành về chữ Nôm để nắm được cái hồn của văn học xưa.

Thí dụ, câu thơ Nguyễn Du trong Truyện Kiều:

 

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa...

 

GS Trần Huy Bích nói rằng có một học giả nói rằng bản nguyên gốc của Nguyễn Du có lẽ là:

 

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trang điểm một vài bông hoa...

mà đời sau viết nhầm thành "Cành lê trắng điểm..."
 

Cuộc tranh luận kéo dài, cho tới khi có người tìm được bản chữ Nôm của Truyện Kiều, cho thấy cụ Nguyễn Du viết chữ Nôm là "Cành lê trắng điểm..." Tức là, màu trắng, chứ không phải chuyện làm đẹp.

 

GS Trần Huy Bích nói rằng GS Nguyễn Văn Sâm đã rất công phu khi phiên âm và chú giải bản Quan Âm Diệu Thiện (Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Kinh). Theo bản khắc năm Mậu Thân 1908 năm thứ 34 niên hiệu Quang Tự (nhà Thanh). Phiên âm từ chữ Nôm ra quốc ngữ là: Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Hiền Tâm.

 

GS Trần Huy Bích nhận xét rằng GS Nguyễn Văn Sâm đã có những chú giải rất cần thiết. Bởi vì, nếu, không có chú giải, chúng ta không hiểu được chữ của tiền nhân.

Thí dụ như câu 87-88:

Thiên Tôn Vô Cực tòa tiền

Từ Hàng quì gối phút liền tâu qua.

Chú giải rằng: Vô Cực Thiên Tôn theo dân gian Nam Bộ là Diêu Trì Kim Mẫu hay Tây Vương Mẫu, nhân vật truyền thuyết của Đạo Giáo. Còn Từ Hàng là hình ảnh Quan Âm Bồ Tát trong Phong Thần Diễn Nghĩa. Tức là trong tác phẩm, những niềm tin dân gian pha trộn nhau để thành tiểu thuyết chữ Nôm, như một phương tiện đem giáo lý nhà Phật tới cho người bình dân Nam Bộ.

Cái pha trộn đó cũng hiển lộ ở câu 100, 101:

 

Chỉ ư chí thiện tiền trình đâu riêng

Lập công phản bản, hoàn nguyên.

 

Nhóm chữ "Chỉ ư chí thiện" là từ sách Đại Học của Nho Giáo, trong khi "phản bản hoàn nguyên" là từ sách Thiên Thai Chỉ Quán của nhà Phật. Nếu không có chú giải sẽ khó nắm ý tác giả.

GS Trần Huy Bích cũng ca ngợi về chỗ chú giải câu thơ 909:

 

Hay đâu cứng cổ việc tu

 

Bản Nôm viết là "cheo" nhưng GS Nguyễn Văn Sâm nhận ra là in nhầm vì nên là chữ "hay" do cách viết 2 chữ rất gần nhau.

 

Tiếp theo là phần GS Đỗ Quý Toàn góp ý. nhận xét về Quan Âm Diệu Thiện. GS Toàn nói, sách này tuy là do 2 tín nữ Nguyễn Từ Ngươn và Hoàng Diệu Trước quyên tiền khắc in, nhưng nhà in hẳn là ở Trung Hoa, cho nên thợ khắc chữ người Trung Hoa không hiểu hết chữ Nôm, nên đã có vài chữ sai, như GS Trần Huy Bích đã nói. Bởi vì, có thể chưa có nhà in nào lớn tại miền Nam VN lúc đó.
 

Điểm cho thấy in ở Trung Hoa là, nơi đầu sách ghi là năm Quang Tự (nhà Thanh) thứ 34. Thêm nữa, lúc đó mấy ông thợ khắc Tàu ghi tên nước Việt cũng sai, qua câu nơi trang đầu sách:

"Hai tín nữ nước Đại An Nam quyên tiền, kính khắc in: Nguyễn Từ Ngươn, Hoàng Diệu Trước."

GS Toàn nói, sách Quan Âm Diệu Thiện khác với sách Quan Âm Thị Kính, một phần cũng vì truyện Quan Âm Thị Kính được các nghệ sĩ Việt Nam soạn thành tuồng, thành chèo, thành kịch nên mức độ phổ biến tăng. GS Đỗ Quý Toàn nói, tác giả Quan Âm Thị Kính là cụ Đỗ Dự, ông tổ 4 đời của GS Toàn.

 

GS Đỗ Quý Toàn nói rằng tác giả Quan Âm Diệu Thiện hẳn là một người miền Bắc di cư vào Nam, vì văn phong còn ảnh hưởng giọng Bắc. Thí dụ, trong bản Nôm viết là "rửa bát" như người Bắc, chứ không viết "rửa chén" như người Nam. Tương tự, vài chữ khác trong sách Quan Âm Diệu Thiện. Thêm nữa, sách này không thấy ảnh hưởng Lục Vân Tiên, trong khi Lục Vân Tiên trước đó ở miền Nam đã được ngâm nga phổ biến rộng rãi.

GS Đỗ Quý Toàn nói rằng tác phẩm Quan Âm Diệu Thiện (Quan Âm Tế Độ) là viết để tuyên truyền cho Phật Giáo. Cô bé nhân vật chính từ bé đã ăn chay, mới 13 tuổi đã dạy cho bố mẹ rằng  cô bé không muốn dính chuyện lấy chồng như đời thường (cô bé trong truyện ghi là hóa thân của Bồ Tát Quan Âm xuống cõi trần để hoằng pháp). Cô chỉ chính thức thọ giới năm 15 tuổi là khi gặp Đức Phật Nhiên Đăng (một vị Cổ Phật trước cả Đức Phật Thích Ca) bay tới dạy pháp cho cô.

GS Đỗ Quý Toàn nói rằng sách Quan Âm Diệu Thiện rao giảng Đạo Phật bằng ngôn ngữ Đạo Nho.  Thí dụ, như mượn câu "Chỉ ư chí thiện" trong sách Đại Học của Nho Giáo để nói về tâm cực thiện. Tiểu thuyết này là giả tưởng, chủ yếu viết cho gay cấn, nên có những chi tiết không thể có trong đời thực, như chuyện 500 nhà sư tuân lệnh vua tới thuyết phục công chúa hãy lấy chồng, hay là hình ảnh công chúa giảng về giáo lý nhà Phật cho các vị sư Chùa Bạch Tước.

 

Khi GS Đỗ Quý Toàn nói xong, GS Trần Huy Bích xin lên đọc một đoạn trong bài giới thiệu của Cư sĩ Huỳnh Kim Quang, nơi trang 18, trích: “Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm là một trong số hiếm hoi các học giả có thẩm quyền về chữ Hán-Nôm của Việt Nam trong và ngoài nước hiện nay đã nỗ lực không ngừng để chạy đua với tuổi già sức yếu mà hoản thành việc phiên âm sang chữ quốc ngữ nhiều tác phẩm văn học chữ Nôm.”

 

Tiếp theo, MC Kim Ngân giới thiệu chị Phan Dụy, cựu sinh viên Văn Khoa Sài Gòn trước 1975, có bài “Thầy Tôi” viết về GS Nguyễn Văn Sâm. Bài chị Phan Dụy đọc trich như sau:

 

Thầy Tôi, thầy Nguyễn Văn Sâm

Kính thưa quý bậc trưởng thượng, quý học giả, quý quan khách, và ban tổ chức,

Thật là một niềm Hạnh Phúc hiếm quý, được tham dự buổi ra mắt sách của Thầy Tôi, trước một cử tọa chọn lọc và ít nhiều cũng cùng chung một niềm thao thức là quý trọng và âu lo cho sự sinh tồn của chữ nghĩa tiếng Việt nói riêng và Văn Hóa Việt Nam nói chung.

Trên cương vị là một người học trò, chúng tôi không dám và chắc chắn là không đủ khả năng, để bàn về, phân tích, hay có ý kiến về cuốn sách mà quý vị đang hay sẽ có trong tay hôm nay. Vì đây là điều mà chính cá nhân chúng tôi cũng đang háo hức mong đợi để được nghe từ quý vị thức giả trong hội trường này. Trên cương vị là một người học trò, mỗi khi nhận được sách Thầy cho, chúng tôi nhận lấy như đứa con nhận những món ăn từ cha mẹ kèm theo lời khuyên:   “ rán ăn cho mau lớn”.

Nếu trên đường đời, dù lớn tuổi bao nhiêu chúng ta cũng vẫn thấy mình bé bỏng trước tình thương của cha mẹ, thì trên đường trường dù thành đạt bao nhiêu, chúng ta cũng cảm thấy nhỏ nhoi trước kiến thức, công lao dạy dỗ và một hoài bão to lớn mà các vị thầy cô đã chăm chút, gởi gắm cho từng đứa học trò. Và mỗi người học trò có những kỷ niệm cá biệt với một số thầy cô.

Với chúng tôi, khi vào ngưỡng cửa đại học, 3 vị thầy đã cấy lên 3 yếu tố góp phần quan trọng  trong tiến trình định hướng thành nhân của tôi, Thầy Lê Hũu Mục dạy tôi phải giữ tinh thần lạc quan tươi vui sẵn sàn đón nhận mọi thử thách của cuộc đời, Thầy Đặng Phùng Quân, dạy tôi, học triết không phải chỉ để suy tư mông lung, hay để khoe mẻ, mà là biết để chọn cho mình một lối sống. Với thầy Nguyễn Văn Sâm, không bằng những lời răn đe hay lý thuyết từ sách vở, mà bằng cuộc đời chân thật hiền hòa, đầy nhân ái, một tinh thần thoải mái và một tấm lòng rộng mở đối với học trò cũng như với mọi người như những cánh đồng ruộng lúa thẳng cánh cò bay miền Tây. Nhưng bên cạnh những êm ả của đồng lúa là niềm thao thức cuồn cuộn đến say mê trong sứ mạng bảo tồn và phát huy chữ nghĩa và văn hóa Việt Nam. Niềm thao thức cuồn cuộn đến say mê, vì thời gian không đứng đợi, như nước sông Cữu Long ngày nay đã dần dà khô cạn vì không tránh được ảnh hưởng của thời cuộc và hoàn cảnh của môi sinh. Thầy đã dạy tôi, sống hết lòng và sống với một mục đích và biết đam mê cho mục đích đó!

Phải thú thật, nếu không có cuộc đổi đời, làm sao tôi có thể quen biết được một vị giáo sư vốn là một dân biểu của thời Đệ Nhất Cộng Hòa, được tiếp tục nghe vị giáo sư dày kinh nghiệm khảo cưu viết sách, giảng dạy về văn chương chữ nghĩa và kinh nghiệm sống ở đời không phải ở giảng đường hay trong sân trường đại học mà là trong những bữa cơm gia đình, trong những ngày tháng đầu đời của cuộc đời tỵ nạn tha hương!

Nói về Thầy tôi, không thể không tỏ lòng cảm mến, biết ơn và cảm phục cô Ngọc Ánh, người phụ nữ này nếu không là con cháu của Bà Trưng Bà Triệu, thì cũng là đồng đội tâm huyết của Cô Giang Cô Bắc. Cá nhân chúng tôi, cô Ngọc Ánh, là người phụ nữ chịu:đứng mũi chịu sào” cho chuyến đò dọc, chở Thầy tôi, và sự nghiệp của người đã dày công xây dựng suốt cả một đời người, kể từ tác phẩm “Văn Chương Tranh Đấu Miền Nam” năm 1969, cho đến ngày nay, một gia tài kếch sù về bộ môn biên khảo đặc biệt về Chữ Nôm và Chữ Hán, mà tôi có thể rất tự hào thiên vị-chủ quan để nói rằng khó có ai sánh kịp, đó là chưa kể những tác phẩm sáng tác, tập truyện, thơ, bày tỏ tình cảm nổi lòng của mình cũng như nói dùm cho kiếp nhân sinh trong những “Ngày Tháng Bồng Bềnh”.

Ca dao người Huế có câu: “Đói lòng ăn nữa trái sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương”, tôi có cảm tưởng đó là hình ảnh của thầy tôi, thầy Nguyễn Văn Sâm với người tình Văn Hóa VN, trong đam mê biên khảo, trong niềm trân quý, trang trọng, yêu mến gốc gác, cội nguồn kho tàng văn hóa đặc thù của Việt Nam. Thầy tôi đã có những chuyến đi thật xa qua tuốt bên trời Tây, “la lết” nhiều ngày trong thư viện của nước Pháp để tìm tài liệu. Thầy Tôi, cũng đã lặn lội về bên trời Á để “bới móc” tìm toài những tài liệu đã bị dập vùi bởi thời cuộc và bởi sự thờ ơ của người đương thời.

Nếu người đương thời thờ ơ, xem nhẹ đến giá trị chữ nghĩa văn chương, văn hóa VN, thì tại sao Thầy tôi phải khổ công sống với niềm thao thức tim kiếm xây dựng đó? Người trồng cây ăn quả, không chỉ làm đẹp cho khung cảnh hiện tại, mà mục đích là mong thế hệ về sau được hưởng những đơm hoa kết trái, vì chính Thầy tôi cũng đã ân sủng nhận được những kho tàng tài lệu quý giá người xưa để lại.

Cuối cùng, trong sự nghiệp sáng tác, biên khảo, trong tiến trình đóng góp để gìn giữ Văn Hóa Việt nam cho đời sau của Thầy Tôi, sẽ không sao thành công được nếu không có sự nâng đỡ của các cơ quan tổ chức như Viện Việt Học, sẽ không thành hình được nếu không có sự hổ trợ vô điều kiện và chăm sóc của người bạn đời Ngọc Ánh, sẽ không có cơ hội trình làng để được khôn lớn, nếu không có những vòng tay rộng mở, đón tiếp của ánh mặt trời độc giả, như quý vị trong hội trường ấm cúng này.

Do đó, là người thuộc thế hệ sau, là người được thừa hưởng công trình của người đi trước, là cương vị một học trò, chúng tôi xin chân thành cảm tạ Viện Việt Học, cô Ngọc Ánh và nhất là quý bằng hữu, quý độc giả đã tiếp tay, thương mến, yểm trợ Thầy Tôi Thầy Nguyễn Văn Sâm trong sự nghiệp bồi đắp Văn Hóa Việt Nam. Kính cảm tạ!

 

Tiếp theo, GS Nguyễn Văn Sâm được MC Kim Ngân mời lên. GS Sâm đã cảm ơn GS Đỗ Quý Toàn và GS Trần Huy Bích, và nói rằng cô Phan Dụy vừa khen quá lời. GS Nguyễn Văn Sâm nói rằng GS nhận được bản Nôm từ một cơ duyên lạ, cho nên tự thấy “tôi phải phiên âm và chú giải, vì nếu tôi không in ra thì không ai biết có bản Nôm này.” Trong khi tác giả gửi gấm tấm lòng trong bản Nôm, đáp ứng đúng niềm tin dân gian, khi cho Công chùa Diệu Thiện tu thành chánh quả rồi xuống địa ngục để độ cho thân phụ. GS Nguyễn Văn Sâm cũng cảm ơn Cư sĩ Huỳnh Kim Quang đã viết Lời Tựa cho sách Quan Âm Tế Độ đã phân tích nhiều về Phật học trong truyện. GS Nguyễn Văn Sâm nói, “Tâm tình của tôi là chú ý tới văn hóa, tới bản văn cần lưu truyền để tạo ra động cơ cho đời sau sẽ nghiên cứu, chứ không tập trung chú ý tới nội dung. Chủ yếu là chính xác, rồi sẽ có nhiều cuốn khác nữa.

 

GS Nguyễn Văn Sâm kể tiếp: “Khi tôi vượt biên lần thứ nhì, máy ghe chết. Chủ ghe nói, ai có đạo gì thì cầu nguyện xin cứu nha. Lúc đó tôi xin Phật Bà cứu chiếc ghe vượt biên thoát. Tôi chết cũng được, 39 tuổi rồi, nhưng tội nghiệp những người khác, đàn bà, con nít trên ghe. Nhiều tiếng đồng hồ sau, chủ ghe tìm ra lỗ hổng của ghe để lấy áo quần vo lại, nhét vào để nước không tràn vào ghe. Sách truyện có 2 tiểu thuyết cho 2 nhân vật: Quan Âm Diệu Thiện và Quan Âm Thị Kính, nhưng Quan Âm Thị Kính gần đời thường hơn, phổ sang làm cải lương, hát bội nên đồng bào biết nhiều hơn. Còn Quan Âm Diệu Thiện chưa được biết nhiều.”

 

Tiếp theo, GS Tôn Thất Côn thay mặt nhóm biên tập thế hệ “48-55 Khải Định” đã trao tặng bộ sưu tập 25 năm với mỗi năm một ấn bản, từ năm 1996 đến năm 2000, do nhà văn Ngự Thuyết Tôn Thất Ngự chủ biên và nhiều học giả khác góp bài. GS Nguyễn Văn Sâm đã thay mặt Viện Việt Học nhận bộ sưu tập Khải Định để lưu trữ làm tài liệu.

 

blank

Từ trái: GS Nguyễn Văn Sâm thay mặt Viện Việt Học nhận bộ sưu tập Khải Định từ GS Tôn Thất Côn. Chị Nguyễn Kim Ngân, Giám Đốc Viện Việt Học.

 

 

Trong phần văn nghệ, MC là chị Diệu Trang, giới thiệu các ca sĩ Thu Vàng, Kim Phương và Đạo Tâm trình diễn xuất sắc nhiều ca khúc.

 

Trường hợp độc giả muốn tìm mua sách Quan Âm Tế Độ, có thể liên lạc với:

GS Nguyễn Văn Sâm

[email protected]

Hoặc trả tiền qua Zelle:

714-332-9086

 

blank

Văn nghệ, từ trái: Diệu Trang, Thu Vàng, Kim Phương, Đạo Tâm

 

Tham dự trong buổi hội thảo có nhiều học giả và văn nghệ sĩ, như GS Nguyễn Trung Quân, nhạc sĩ Võ Tá Hân, các nhà văn Lê Lạc Giao, Tô Đăng Khoa, Phan Tấn Hải…

 

Đặc biệt, hai ngày sau buổi hội thảo, GS Nguyễn Văn Sâm có ghi trên trang Facebook cho biết chương trình làm việc:

“Trong buổi Mạn Đàm về cuốn sách Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Ca, ngày 03 tháng 09 vừa qua có một vài vị lớn tuổi hỏi tôi vậy chớ có còn tác phẩm Nôm Phật giáo nào sẽ ra mắt công chúng hay không, tôi đã trả lời là trong quá khứ về mặt nầy tôi đã in vài ba cuốn như:

1. Trương Ngáo hay Người đi Đòi Nợ Phật, 2008

2. Tội Vợ Vợ Chịu 2010

3.. Hứa Sử Truyện, tức Tỉnh Mê Một Cõi , 2015

Trong tương lai gần nếu hoàn cảnh thuận lợi  tôi sẽ cho in các  thơ Nôm:

1. Quan Âm Thị Kính (thơ 6/8)

2. Lưu Hương Bảo Quyển (thơ 6/8)

3.  Du địa Ngục  (tuồng, quốc ngữ)

Xin giới thiệu trước một đoạn ngắn  tức 10 điều răn của nhân vật Lưu Hương trong cuốn Lưu Hương Bửu quyển:

«Một là tin tưởng Phật trời

Thờ cha kính mẹ hiếu thời vi tiên

Hai là tu đức hồi thiên

Từ bi nhẫn nhục cố kiên tinh thần

Ba là rượu thịt chớ gần

Ăn chay niệm Phật ân cần thiện vi

Bốn là sắc dục đọan ly

Trừng tâm thanh tịnh lễ nghi vẹn tòan

Năm là hòa thuận xóm làng

Bần dân ân xá bạc vàng đừng tham

Sáu là tu tạo chùa am

Ngân tiền bố thí chớ cam một mình

Bảy là an dưỡng tín thành

Đê tâm hạ khí từ thìn nết na

Tám là chớ nói sai ngoa

Cố ngôn cố hạnh gần xa yên vì

Chín là lập chí tu trì

Kiên tâm luận đạo thần kỳ kính khâm

Mười là chẳng đặng tà dâm

Sát sanh hại vật sắc âm chớ gần.»

 

Xin trân trọng biết ơn GS Nguyễn Văn Sâm. Tuổi của Giáo sư mấp mé 90 rồi, nhưng Giáo sư vẫn ra sức làm việc liên tục để bảo toàn nền văn học chữ Nôm đang có cơ nguy biến mất. Xin trân trọng biết ơn.

.

 

blank

Từ phải: cô Phan Dụy, GS Trần Huy Bích, GS Nguyễn Văn Sâm và phu nhân là nhà văn Trần Ngọc Ánh.

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhân dịp lần thứ 45 tưởng niệm biến cố Tháng Tư Đen, Dân Biểu Liên Bang Harley Rouda (Địa Hạt 48) đã gởi thông điệp đến với cộng đồng Người Mỹ gốc Việt tại Quận Cam: Trong thông điệp này, Dân Biểu Rouda cũng nhắc đến những người trong cộng đồng chúng ta mà ông vừa vinh danh: Tướng Lê Minh Đảo, nhạc sĩ Trúc Hồ, Bác Sĩ Phạm Đỗ Thiên Hương.
Tuần này sẽ đánh dấu nhiều mốc ngoặc mới trong đại dịch vi khuẩn corona khi các trường hợp bị lây nhiễm tại Hoa Kỳ đã hơn 1 triệu, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh tái mở cửa và một số nhân viên y tế địa phương bắt đầu thử nghiệm kháng thể cho công chúng, theo bản tin của CNN cho biết hôm Thứ Hai, 27 tháng 4 năm 2020. Tính tới Thứ Hai, Hoa Kỳ đã có 1,008,571 trường hợp bị lây, với 56,521 người thiệt mạng.
3 videos ngắn cho thấy “hiện tượng xuất hiện trong không gian không xác định” đã được công bố bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Các video, đã được phổ biến trước đây bởi một công ty tư nhân, cho thấy cái gì đó trông giống các vật bay không xác định di chuyển nhanh trong khi được thu hình bởi các máy thu hồng ngoại tuyến, theo CNN tường trình cho biết. 2 trong 3 video, các quân nhân có thể nghe được sự phản ứng các vật bay nhanh như thế nào. Một giọng nói cho thấy nó có thể là một chiếc robot.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tối nay 22 Tháng Tư, chính quyền Trump đã ban hành một Sắc lệnh mở rộng những hạn chế về nhập cư trong một nỗ lực rộng lớn để tiếp tục chương trình bài ngoại nhằm đánh lạc hướng người Mỹ về thất bại của chính họ qua các giải pháp thích ứng với đại dịch coronavirus. Sắc lệnh này được xây dựng trên một số chính sách chống người nhập cư do chính quyền đưa ra trong vài năm qua đóng cửa gần như tất cả các con đường hợp pháp để nhập cư.
Bắt đầu từ sau giữa tháng Ba 2020, hầu hết các doanh nghiệp không thiết yếu trên khắp Hoa Kỳ đều đã lần lượt được lệnh phải đóng cửa để ngân chận sự lây lan của Coronavirus, trong đó có hàng chục ngàn tiệm Nail của người gốc Việt. Vì buộc phải đóng cửa một cách bất ngờ và cũng bởi chưa đến ngày trả lương theo định kỳ, nhiều chủ tiệm Nail đã không kịp thanh toán cho nhân viên khoản tiền lương của những ngày đã làm việc từ sau lần lãnh lương trước đó cho đến ngày ngưng làm việc vì Coronavirus. Ngoài ra, vì nghĩ rằng sẽ không bị buộc phải đóng cửa quá lâu, nhiều chủ tiệm Nail dự tính sẽ trả đủ tiền lương ngay khi nhân viên trở lại làm việc. Tuy nhiên, rất ít chủ doanh nghiệp hiểu rằng không thanh toán tiền lương theo đúng quy định cho nhân viên sau khi nghỉ việc, sẽ là nguyên nhân dẫn đến vô số rắc rối về pháp lý.
Những người có khuynh hướng cực đoan trong chính kiến, dù hữu khuynh hay tả khuynh, đều có những đặc điểm giống nhau và rất khác người ôn hoà. Bài viết này tóm lược một nghiên cứu tâm lý học đăng trên Sage Journals tháng Giêng 2019. Hy vọng nó sẽ giúp ta hiểu thêm về hiện tượng tâm lý chính trị cực đoan để tránh bị khích động, đồng thời giúp ta tìm ra cách hoá giải. Xin lưu ý “hữu khuynh”và “tả khuynh” trong bài được dùng theo định nghĩa thông thường và hoàn toàn không hàm ý tốt hay xấu. Trong chính trị học, cộng đồng con người thường được chia làm ba nhóm: cấp tiến (liberal), trung hoà (moderate) và bảo thủ (conservative). Sự phân cách này phần lớn xuất phát một cách tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được nhào nặn thêm bởi giáo dục, truyền thống, truyền thông, xã hội v.v.
nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời vì chưa có một ai đã trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”). Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi. Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không? Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật. Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ bình thường, không ngừng gia tăng thêm lên mãi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse). Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đã đạt được đến mức nầy hay chưa?
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Vào lúc 5:00 giờ chiều Chủ Nhật 26/04/2020, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đã có buổi nói chuyện trên mạng lần thứ hai với nhóm Phật tử Giớ Trẻ Mây Từ, với chủ đề những điều Phật tử nên làm trong mùa đại dịch COVID-19 đang tiếp tục hoành hành.
New York bị thiệt hại nặng nề hơn bất cứ khu vực nào tại Hoa Kỳ bởi đại dịch vi khuẩn corona tính đến nay, 26 tháng 4, và ác mộng của tiểu bang vẫn còn chưa hết. Hôm Thứ Bảy, 25 tháng 4, có 5,902 người đã thử nghiệm dương tính với vi khuẩn corona, và trong khi đó là sự sút giảm từ cao điểm của tiểu bang (khi một ngày chứng kiến hơn 10,000 người thử nghiệm dương tính), tiểu bang này vẫn còn nhiều trường hợp bị lây mới hơn 25 tiểu bang đã bị trong tổng số hơn 3 tháng kể từ vụ lây lan của vi khuẩn vào Mỹ bắt đầu.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.