Hôm nay,  

Song ngữ: Did the Buddha preach the Dharma, or did he not preach the Dharma? / Đức Phật có thuyết pháp hay không thuyết pháp

22/12/202317:31:00(Xem: 7463)
blank

Đức Phật có thuyết pháp hay không thuyết pháp

 

Tâm Diệu

 

Trong các thuật ngữ của đạo Phật, có lẽ không có từ ngữ nào mà người học Phật cần phải hiểu và cần phải phân biệt rõ ràng, nếu như muốn hiểu giáo lý thâm diệu của đạo Phật như hai thuật ngữ "Chân Đế" và "Tục Đế".

 

Thật vậy, Đức Phật, vì muốn độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi nên mới nương vào thế giới Tục đế mà nói pháp, nhằm chỉ bày cho chúng sinh thấy được cái bản chất chân thật tự nhiên của Tâm vốn sẵn có, để chúng sinh, tự nỗ lực tu hành giải thoát khỏi khổ đau sinh tử, lìa khỏi thế giới Tục đế, đến thế giới Chân đế.

 

Cũng vì thế mà Ngài Long Thọ Bồ tát nói rằng: "... Các Đức Phật vì chúng sinh, y vào Nhị đế mà nói pháp, thứ nhất là Thế tục đế và thứ hai là Đệ nhất nghĩa đế. Nếu người nào không nhận thức được hai chân lý này, thì đối với Phật pháp sâu xa, không thể hiểu được chân nghĩa. Nếu không nương tựa vào tục đế, thì không thể thấy được chân lý; nếu không thấy được chân lý, thì không thể ngộ được Niết bàn..." [1]

 

Tục đế là một hợp từ: "tục" nghĩa là thế tục, thế gian hay phàm tục, "đế" nghĩa là chân lý. Tục đế có nghĩa là những cái gì mà người thế tục đồng ý với nhau, gọi là chân lý quy ước hay còn gọi là chân lý tương đối, hoặc còn gọi là chân lý thế tục hoặc thực tại tương đối. Nó là tất cả những hiện tượng do duyên khởi tức là pháp sinh diệt trong thế gian nầy.

 

Còn Chân đế, cũng là một hợp từ, có nghĩa là chân lý chân thật không hư vọng, là chân lý tuyệt đối, là chân lý tối thượng, cũng còn gọi là Đệ nhất nghĩa đế, là chân tâm, là giác tánh, là chân như...

 

Chân lý tuyệt đối là gì? Không ai biết được ngoại trừ chính chư Phật và chư Tổ đã giác ngộ. Các Ngài cũng không thể nói cho chúng ta biết được. Toàn bộ giáo điển của chư Phật là pháp phương tiện, Ngài "dùng pháp thế gian, (tức thế tục đế) để giảng nói cho chúng sinh" [2], cốt để chúng sinh ngộ được cái chân lý tuyệt đối như Ngài vì Ngài thấy Tâm Phật và Tâm chúng sinh vốn không khác, vốn tự đầy đủ mênh mông khắp không gian và thời gian.

 

Thật vậy, xuyên qua lời dạy của Phật và chư Tổ, sở dĩ có sự sai khác là vì tâm chúng sinh bị mê mờ ô nhiễm. Cái Tâm bị bao vây bởi tham sân si, bởi vọng tưởng điên đảo, bởi tham nhiễm các pháp có không. Ngài Sogyal Rinpoche, một đại sư Tây tạng, ví Tâm chúng ta bị vây kín trong một cái bình mà "khoảng không trong bình cũng giống như khoảng không bên ngoài. Khi chúng ta giác ngộ, thì cũng như cái bình vỡ tan thành mảnh vụn... Ngay lúc đó và tại chỗ đó, chúng ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác..." [3]

 

Vì tâm sinh diệt của chúng sinh luôn luôn dính mắc vào các pháp "có không" nơi thế giới hiện tượng tức thế giới tục đế, nên Đức Phật thấy thật là khó nói về cái mà Ngài đã chứng ngộ, chẳng hạn như nói về Phật tánh, chân tâm, vốn không hình tướng, không số lượng. Nếu nói chúng sinh có Phật tánh là chấp trước, nói không có Phật tánh là hư vọng, nói Phật tánh cũng có cũng không là nói trái ngược nhau, nói Phật tánh chẳng có chẳng không là hý luận. Nên Phật mới dùng các pháp thế gian phương tiện, "giả lập kệ pháp, giả lập danh tự, vốn chẳng phải Phật, nói với họ là Phật, vốn chẳng phải Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, nói với họ là Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, ... Biết họ gánh trăm tạ chẳng nổi, tạm cho họ gánh một lon, một chén, biết họ khó tin giáo liễu nghĩa, tạm nói với họ giáo bất liễu nghĩa, tạm được pháp lành lưu hành còn hơn là pháp ác..." [4].

 

Cũng chính vì chân lý tuyệt đối này rất khó hiểu, khó nhận, khó nói nên đôi khi Ngài phải dùng những thí dụ bằng lời nói, như trong Kinh Pháp Hoa, Phật dùng bảy thí dụ, trong đó có hai thí dụ là cái nhà lửa và câu chuyện đứa con cùng tử mà ai cũng biết. Ngoài ra còn nhiều kinh khác như Bách Dụ Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh, Bồ Tát Bổn Sanh Kinh, ... Các thí dụ Ngài nói trong kinh thường dùng phương thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa thâm thúy, ám thị lý tuyệt đối mà chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời trực tiếp mà giảng giải vì lời chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư tưởng tương đối, cái có hình, có tướng trong thế giới nhị nguyên.

 

Chư Tổ chứng ngộ cũng vậy, không thể nói cho chúng ta biết được chân lý tuyệt đối là gì, mà quý Ngài chỉ dùng những câu chuyện ngụ ngôn, như câu chuyện con rùa và con cá để làm thí dụ mà thôi. Rằng con rùa từ dưới nước bò lên mặt đất, đi một vòng rồi trở về nước, bơi cạnh con cá, kể chuyện đất liền cho nó nghe. Nhưng con cá, vì chưa bao giờ rời khỏi nước, không thể tưởng tượng nổi lại có một môi trường có thể sống được mà không có nước, không bơi lội. Cho nên con rùa đành chịu mang tiếng là nói chuyện viển vông hoang đường, không có trong thực tế. [5]

 

Cảnh giới tuyệt đối, chân tâm, giác tánh, chân như, mà Phật đã giác ngộ không thể nói cho người chưa chứng ngộ biết được. Vì lẽ đó mà người đời đôi khi cũng phê bình: "Đạo Phật cao siêu quá, không có trong thực tế". Nhưng chính đó mới là cốt tủy của Phật Giáo.

 

Kinh Kim Cang là kinh liễu nghĩa, nói về cốt tủy của đạo Phật, về chân lý tuyệt đối, cho nên không có pháp gì để nói. Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời vốn là nhân kiên cố của vòng xích luân hồi, đã lôi kéo chúng sinh vào vòng trầm luân muôn vạn kiếp. Ngài phá bỏ không còn một kiến chấp nào và Ngài cũng tuyên bố luôn là Ngài không thuyết pháp:

 

"- Tu Bồ Đề! Ông chớ cho Như Lai có nghĩ rằng: "Ta có nói pháp". Ông chớ nghĩ như vậy. Bởi vì sao?

- Vì nếu người nào nói rằng: Như Lai có nói pháp, tức là chê Phật, không hiểu được lời của ta nói.

- Tu Bồ Đề! Nói pháp, là không có pháp gì nói được, ấy gọi là nói pháp." (6)

 

Có nghĩa là Phật không nói về cái chân lý tuyệt đối, về cái chân tâm, Phật tánh, Chân Như, vì chân lý tuyệt đối vốn chẳng thể dùng ngôn ngữ tương đối thế tục để biểu thị. Ngài chỉ dùng ngôn ngữ thế gian tức chân lý thế tục để chỉ bảo chúng sinh, mà ngôn ngữ thế tục, là pháp tương đối thì không có tự tánh, chỉ do nhân duyên hòa hợp, và do nhân duyên hòa hợp nên không có thật.

 

Đức Phật khi giảng pháp, Ngài luôn luôn nói sự thật. Có khi Ngài nói về sự thật tương đối và có khi Ngài nói về sự thật tuyệt đốị Nếu không hiểu điều đó, chúng ta thấy nhiều điều Ngài nói trái ngược nhau và sẽ làm cho chúng ta bối rối, hiểu mập mờ, hỗn độn (confuse). Thí dụ như trong kinh Đại Bát Niết Bàn đức Phật nói:

 

Chư hành vô thường,

Thị sinh diệt pháp.

Sinh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc.

 

Tạm dịch là:

 

Các hành vô thường

Là pháp sinh diệt

Sinh diệt hết rồi

Tịch diệt là vui.

 

Hai câu đầu có nghĩa là tất cả các pháp trong thế giới hiện tượng đều vô thường, chúng đều là những pháp sinh diệt. Hai câu sau có nghĩa là khi sinh và diệt không còn sinh diệt nữa thì còn là niềm an lạc. Trong thế giới này, tức thế giới tương đối có sinh và có diệt, còn thế giới kia tức thế giới tuyệt đối thì không sinh không diệt. Nếu chúng ta không hiểu rõ tục đế và chân đế thì cho rằng đức Phật nói trái ngược nhau. Sự thật Ngài luôn luôn nói đúng sự thật. Hai câu đầu là tục đế tức thuộc thế giới hiện tượng tương đối, có sanh và có tử. Hai câu sau thuộc lãnh vực tuyệt đối tức chân đế, không có sinh và không có diệt, là thế giới của pháp tánh hay thế giới của bản thể.

 

Đến đây, chúng ta trở lại bài kệ của Bồ Tát Long Thọ đã nêu trên phần mở đầu. Bồ Tát dạy chúng ta rằng nếu chúng ta không phân biệt được chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối, tức thế tục đế và chân đế, thì chúng ta không thể hiểu được đạo Phật. Do sự không hiểu và không phân biệt rõ này, chúng ta lại nhập nhằng đem lời Đức Phật nói "Không thể nói pháp Tuyệt Đối", mà cho là Đức Phật nói "Không nói pháp Tương Đối" là chúng ta vô tình vướng mắc vào sự hủy báng kinh, chứa đựng những lời tâm huyết của Đức Phật. Ngài đã dùng ngôn ngữ và chân lý thế tục để dạy người thế tục biết cách mà tiến dần trên con đường từ bỏ thế tục, trở về bản thể tuyệt đối. Nếu chúng ta không hiểu được điều đó, mà tưởng rằng Đức Phật không nói pháp, thì chúng ta sẽ mất niềm tin nơi kinh, sẽ mất cơ hội có bản đồ chính xác để tìm đường trở lại bản thể chân tâm tuyệt đối.

 

 ----

 

Ghi Chú

 

 

 

(1).Thích Tâm Thiện, Lịch Sử Tư Tưởng và Triết Học Tánh Không, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 1999.

 

(2). Kinh Đại Bát Nhã, Cuốn 2, Trang 275

 

(3). Sogyal Rinpoche -Thích Nữ Trí Hải dịch, Tinh Chất Cam Lồ, , TP HCM Việt Nam 1969

 

(4). Bá Trượng Ngữ Lục, Thích Duy Lực, Từ ân Thiền Đường xuất bản, 1999 trang 29-30

 

(5). Narada Maha Thera, Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh Việt dịch, Đại Nam xuất bản 1987, trang 458-459

 

(6). Thích Huệ Hưng dịch, Kinh Kim Cang Giảng Lục, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản 1983, trang 82.

 

 

(Trích từ sách Phật Pháp Trong Đời Sống, Nhà xuất bản Hồng Đức 2014)

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/p22a21709/15-duc-phat-co-thuyet-phap-hay-khong-thuyet-phap

 

.... o ....

 

Did the Buddha preach the Dharma, or did he not preach the Dharma?

 

Author: Tâm Diệu

Translated by Nguyên Giác

 

 To comprehend the profound teachings of Buddhism, students of Buddhism must understand and clearly distinguish between the two terms "Ultimate Truth" and "Conventional Truth."

  

The Buddha relied on worldly truth to speak Dharma in order to save sentient beings from the cycle of birth and death. His aim was to reveal the true nature of the existing mind to sentient beings, so that they could make their own efforts to practice and liberate themselves from the suffering of birth and death. This would enable them to leave the world of conventional truths and reach the world of ultimate truth.

 

That's why Nagarjuna Bodhisattva said, "For the sake of sentient beings, the Buddhas speak the Dharma based on the Two Truths: the first is the conventional truth, and the second is the ultimate truth. Anyone who is unaware of these two truths cannot understand the profound meaning of the Dharma. If one does not rely on conventional truths, one cannot see the truth; if one cannot see the truth, one cannot realize Nirvana."

 

The conventional truth, also known as secular truth, is a compound word: "secular" refers to worldly, and "truth" denotes truth. Conventional truth refers to the consensus among secular individuals, also known as relative truth or secular reality. All phenomena arise due to conditions, known as dharmas, and they arise and pass away in this world.

 

As for the ultimate truth, it is a compound word signifying genuine truth, not falsehood. It represents the absolute truth, the supreme truth, the truth of highest significance, the true mind, the nature of awareness, or suchness.

 

What is the absolute truth? No one knows, except the enlightened Buddhas and Patriarchs. They also cannot inform us. The entire teachings of the Buddhas are expedient methods. The Buddha utilized worldly dharma, the conventional truth, to teach living beings so that they could comprehend the absolute truth, just as he did, perceiving no distinction between the mind of Buddha and the mind of any worldly being. The same mind is inherently self-sufficient and vast across space and time.

 

Indeed, the teachings of the Buddha and the Patriarchs are often misinterpreted due to the confusion and pollution of the reader's mind. When the mind is consumed by greed, anger, and ignorance, as well as contradictory delusions, and by clinging to attachments of existence or non-existence, that is the moment of turmoil. Sogyal Rinpoche, a renowned Tibetan master, compares our mind to being enclosed in a vase, stating that "the space inside the vase is the same as the space outside. When the practitioner achieves enlightenment, it is akin to seeing a vase shattered into pieces. Right then and there, the practitioner directly perceives that space has never had any separation or difference."

 

Because the minds of sentient beings are constantly arising and passing away, always attached to the existence or non-existence of the phenomenal world (i.e., the worldly truth), the Buddha found it difficult to articulate the Dharma that he realized, such as Buddha nature or the true mind, which has no form or quantity. If we assert that sentient beings possess Buddha nature, we embrace the mistaken concept of existence. If we deny the existence of Buddha nature, we are holding onto an illusion. If we assert that Buddha nature both exists and does not exist, it leads to a contradiction. If we assert that Buddha nature is neither existent nor nonexistent, it becomes nonsensical. That's why Buddha used the concept of worldly dharma, which refers to half-truths in verses, names, and words. Where there was no Buddha, he still claimed that there was a Buddha. Similarly, even in the absence of Bodhi, Nirvana, or liberation, the Buddha still informed the audience that it was Bodhi, Nirvana, or liberation. Understanding that the listeners were unable to carry a load of hundreds of kilograms, the Buddha temporarily allowed them to carry either one vase or one cup. The Buddha understood that his listeners struggled to believe in teachings with ultimate meanings. Therefore, he temporarily shared teachings that did not have ultimate meanings, allowing beneficial worldly teachings to circulate temporarily, rather than allowing harmful beliefs to arise.

 

Because this absolute truth is very difficult to understand, live with, and interpret, the Buddha sometimes had to use similes. As in the Lotus Sutra, Buddha used seven examples, two of which are well-known: the house on fire and the story of the wandering son. There are also numerous other sutras, including the Sutra of One Hundred Similes (Bách Dụ Kinh), the Sutra of Multiple Similes (Tạp Thí Dụ Kinh), the Jataka Tales (Bồ Tát Bổn Sanh Kinh), and more. In numerous sutras, the Buddha employed metaphors with profound meanings to illustrate the absolute truth, which cannot be directly conveyed in words because words can only express worldly ideas that have shape and form in the realm of duality.

 

Similarly, the Enlightened Patriarchs are unable to provide us with the absolute truth; instead, they rely on parables, such as the story of the turtle and the fish, to illustrate their points. The turtle emerged from the water, moved around on land, and then returned to the water. It swam alongside the fish and shared stories about the land. The fish, having never left the water, cannot imagine an environment where it can survive without water and without swimming. Consequently, the turtle had to bear the reputation of speaking about wild nonsense that had no basis in reality.

 

The absolute realm to which the Buddha was enlightened—such as the true mind, nature of awareness, and suchness—cannot be explained to ignorant people. For that reason, people sometimes criticize Buddhism as being too sublime, too abstract, and disconnected from reality. But that is the essence of Buddhism.

 

The Diamond Sutra is one of the most profound sutras, delving into the essence of Buddhism and the absolute truth, asserting that there is truly no dharma to speak of. The Buddha's teachings in this sutra assist sentient beings in overcoming their relative understandings, inherent wrong views, and long-standing entanglements that are significant causes of the cycle of reincarnation. These factors have led sentient beings into an almost eternal cycle of birth and death.

 

The Buddha rejected all attachment to views and stated that he never claimed to preach the Dharma. The Diamond Sutra states: "Subhuti! Do not let the Tathagata think that the Buddha taught the Dharma. Please do not think like that. Why? If anyone claims that the Tathagata spoke the Dharma, it implies that this person is criticizing the Buddha and does not understand my teachings. Subhuti! To speak the Dharma is to say that there is no Dharma to say; that is called speaking the Dharma."

 

Buddha does not discuss the absolute truth, the true mind, Buddha nature, or True Suchness, as these concepts cannot be expressed in the relative language of the world. He only employs mundane language, or the secular truth, to guide sentient beings. However, mundane language, which is conditioned dharma, is inherently empty. It appears through the combination of causes and conditions and therefore cannot indicate the unconditioned truth.

 

When preaching the Dharma, the Buddha always spoke the truth. Sometimes the Buddha discussed conventional truth, and at other times, he discussed absolute truth. If we fail to comprehend this, we may perceive many of the Buddha's teachings as contradictory, leading to misunderstanding or confusion.

 

For example, in the Mahaparinirvana Sutra, the Buddha said,

 

"All formations are impermanent;

they are the phenomena of birth and death.

When birth and death come to an end,

cessation is bliss."

 

The first two lines indicate that all phenomena in the secular world are impermanent; they are all subject to birth and death. The last two lines imply that once birth and death cease to exist, what will remain is blissful peace. This world is a realm of relative birth and death. As for the world on the other shore, the absolute world, there will be no birth and no death. If we do not have a clear understanding of the conventional truth and the ultimate truth, we may mistakenly believe that the Buddha made contradictory statements. In fact, Buddha always spoke the truth. The first two lines express the conventional truth, which pertains to the realm of relative phenomena, where birth and death occur. The last two lines pertain to the absolute realm, which represents the ultimate truth. In this realm, there is no birth or death; it is the world of dharma nature, or the world of inherent essence.

 

At this point, we return to the verse of Bodhisattva Nagarjuna mentioned in the opening of this article. Bodhisattva teaches us that if we cannot distinguish between relative truth and absolute truth, that is, worldly truth and ultimate truth, then we cannot fully comprehend Buddhism. Due to this lack of understanding and lack of distinction, we ambiguously interpret the Buddha's words to mean that the Absolute Dharma cannot be conveyed, and mistakenly believe that the Buddha did not speak about the Relative Dharma. This unintentionally leads to slandering the sutras, which contain the essential words of the Buddha. He employed everyday language and conventional truths to instruct ordinary people on how to gradually advance on the path of renouncing the phenomenal world in order to reconnect with their essential nature. If we fail to comprehend this and believe that the Buddha did not teach the Dharma, we may lose faith in the sutras and miss the chance to possess an accurate guide to rediscover the true nature of the absolute mind.

 

(Excerpted from the book Live The Buddhist Teachings, Hồng Đức Publishing House, 2014)

 

.... o ....




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hàng ngàn người biểu tình đã quỳ gối trên bãi cỏ bên ngoài Tòa Nhà Quốc Hội hôm Thứ Ba, 2 tháng 6, hô vang khẩu hiệu “im lặng là bạo động” và “không công lý, không hòa bình,” chỉ trước giờ giới nghiêm được chính quyền đưa ra khi các cuộc biểu tình chống sự bạo hành của cảnh sát đã bùng nổ tại nhiều thành phố lớn. Đám đông tại Tòa Nhà Quốc Hội sau đó đã đứng dậy và hô to “quỳ gối” và “bạn bảo vệ ai?” khi các cảnh sát đối mặt với họ. Các lệnh giới nghiêm vào chiều tối đã được ban hành tại hàng chục thành phố theo sau một tuần biểu tình vì cái chết của người da đen 46 tuổi George Flyod tại Minneapolis. Phần lớn là ôn hòa vào ban ngày, đám đông đã nổ ra phá hoại, đốt phá và cướp bóc sau khi trời tối. Tổng Thống Donald Trump đã kêu gọi Lực Lượng Vệ Binh Quốc Gia hoặc quân đội Hoa Kỳ trấn áp những gì được gọi là "du thủ du thực," "kẻ trộm" và "côn đồ" chịu trách nhiệm về bạo lực, đổ lỗi cho các thống đốc tiểu bang hoặc các quan chức địa phương vì đã không can thiệp.
Có 213 trường hợp mới bị lây vi khuẩn corona xảy ra hôm Thứ Hai tại Quận Cam, theo các số liệu được cập nhật từ Cơ Quan Chăm Sóc Sức Khỏe Quận Cam cho biết. Toàn quận hiện có 6,574 trường hợp bị lây, gồm 665 cư dân nhà dưỡng lão và 377 tù nhân tại nhà tù Quận Cam. 213 trường hợp mới hôm Thứ Hai là cao thứ 4 trong một ngày trong quận trong thời đại dịch, và cao nhất trong một ngày là 216 trường hợp vào ngày 23 tháng 5. Số người thiệt mạng trong quận là 150.
Trái banh ném đi tùy thuộc vào chiều dài của cánh tay người cầu thủ ném bóng và sức mạnh ở vai.Cánh tay càng dài và vai càng mạnh thỉ trái banh càng đi xa. Ngay khi sinh ra, cánh tay nam giới thường dài hơn là cánh tay nữ giới. Tới tuổi dậy thì, nam giới có được cái lợi thứ hai là khi testosterone làm vai lớn lên và cơ bắp ở lồng ngực dầy ra. Kết quả của kích thích tố tăng trưởng này là phần trên của cơ thể mạnh hơn phần cơ thể của nữ giới tới từ hai tới ba lần.Vì thế tại sao nữ lực sĩ lại có vẻ kém nam lực sĩ ở các môn thể thao như nói về sức mạnh về ném.
Sáng sớm Thứ Ba, 2 tháng 6 năm 2020 trận cháy thiêu nhiều căn nhà tại một khu thương mại tầng trệt tại thành phố Costa Mesa, theo các viên chức cứu hỏa cho báo OC Register biết. Trận cháy đã được báo cáo vào khoảng 3 giờ rưỡi sáng tại địa điểm 1515 MacArthur Blvd., theo Đại Úy Joseph Noceti của Ty Cứu Hỏa Costa Mesa cho biết. “Có người nào đó tại chỗ cháy đã gọi cho cứu hỏa,” theo Noceti cho biết. “Khi lính cứu hỏa tới nơi thì lửa đã bùng lên tới mái nhà.” Trong khi đó, hơn 300 người biểu tình đã hô to khẩu hiệu tại góc đường Birch Street và Brea Blvd., tại đường phố của thành phố Brea hôm Thứ Ba, 2 tháng 6, để biểu tình chống cái chết của George Flyod.
Garden Grove City Manager Scott Stiles vừa ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn thành phố Garden Grove trong hai đêm 2 và 3 tháng Sáu. Đêm đầu tiên, lệnh giới nghiêm bắt đầu từ 6 giờ chiều hôm nay, thứ Ba, 2 tháng Sáu đến 5 giờ sáng thứ Tư, 3 tháng Sáu. Đêm thứ hai, lệnh giới nghiêm có hiệu lực từ 6 giờ chiều, thứ Tư, 3 tháng Sáu đến 5 giờ sáng thứ Năm, 4 tháng Sáu. Trong thời gian lệnh giới nghiêm được ban hành, tất cả các cư dân phải ở trong nhà, không được đi ra đường, đi trên vỉa hè, ra công viên hay tụ tập ở các địa điểm công cộng trong phạm vi thành phố Garden Grove. Tất các các doanh nghiệp phải đóng cửa trong khoản thời gian lệnh giới nghiêm nói trên.
Các tiệm làm tóc và tiệm hớt tóc có thể mở cửa lại và ăn uống trực tiếp tại các nhà hàng có thể được tiếp tục ngay lập tức với các biện pháp bảo vệ khi Quận Los Angeles tiến lên Lộ Trình Phục Hồi. Tiểu bang California hôm nay đã phê chuẩn yêu cầu của Quận cho một thay đổi khác biệt đến các hướng dẫn của tiểu bang vì Quận đã đáp ứng được các ngưỡng sức khỏe công cộng cần thiết để an toàn cho phép các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế và cộng đồng được bắt đầu phục vụ cư dân. Quận đã chứng minh rằng họ đã kiểm soát được sự lây lan của vi-rút và đang bảo vệ cư dân và những công nhân viên thiết yếu. Khả năng xét nghiệm bệnh viện và truy tìm mối tiếp xúc là thích đáng để đối phó với bùng phát dịch bệnh. Quận Los Angeles hiện đang trong giai đoạn nâng cao của Giai Đoạn 2 của Lộ Trình Khả Năng Phục Hồi của Tiểu Bang.
WASHINGTON ngày 2 tháng 6 – Một ngày sau khi bị chỉ trích lợi dụng cơ hội chụp hình tại một nhà thờ bị đốt cháy ở gần Tòa Bạch Ốc, tổng thống Trump đem thông điệp chống người biểu tình “Tuân Thủ Luật Pháp” của ông đến một đền thờ Công Giáo, một cuộc viếng thăm nhanh chóng bị các giám mục lãnh đạo Công Giáo của nhà thờ lên án. Trump và đệ nhất phu nhân Melanie Trump vào ngày thứ ba trong một chuyến thăm ngắn đến Đền thờ Quốc Gia Thánh John Paul Đệ Nhị kế bên trường Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ. Đền thờ là nơi cầu nguyện cho người Công Giáo nhưng chào đón mọi người thuộc mọi tín ngưỡng.
ông A. Acevedo, cảnh sát trưởng thành phố Houston- Texas đã có lời nhắn đến tổng thống Trump: “Nếu tổng thống không biết làm việc gì để xây dựng, xin làm ơn ngậm miệng lại (keep your mouth shut), vì ông đang đẩy những người thanh niên nam nữ ở độ tuổi 20 vào rủi ro…”
Theo thống kê chính thức của Đại học Johns Hopkins University (JHU), đại dịch bệnh COVID-19 đã gây tử vong cho hàng trăm ngàn người trên thế giới và con số nầy đang có khuynh hướng tăng dần trong mỗi ngày như tại Mỹ, tính đến sáng hôm nay, ngày 1/6/2020 (giờ địa phương), Hoa Kỳ đã có 1.811.172 ca bị lây nhiễm và 105.167 ca bị tử vong (thống kê JHU). Ngoài thiệt hại về nhân mạng, Covid-19 đã làm đảo lộn nhiều giá trị trên toàn cầu và mang lại nhiều hệ lụy về kinh tế, nghề nghiệp, miếng cơm manh áo cho nhiều gia đình.Trong tình thần yêu thương giúp đỡ đồng hương, Đoàn CTXH Nghĩa Sinh đã lên đường về miền Tây chia sẻ với người nghèo và những mái ấm dưỡng dục cô nhi với tâm tình: “Miếng khi đói, gói khi no” – sau thời gian giãn cách xã hội phòng chống dịch bệnh.
Cho đến ngày 01 tháng 6, 2020, đã có hơn 6,2 triệu người được xác nhận dương tính COVID-19 và gần 366.000 người chết trên toàn cầu. Tại Hoa Kỳ, hơn 1,8 triệu ca bị nhiễm và hơn 105.000 người chết. Để so sánh, COVID-19 trong 3 tháng đã giết nhiều người Mỹ hơn bất cứ cuộc chiến tranh nào ngoại trừ hai cuộc thế chiến và cuộc nội chiến. Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Ngừa Bệnh Dịch (CDC) tiên đoán đến ngày 20 tháng 6, 2020, sẽ có 115.000 người chết, tương đương với số người Mỹ chết trong Thế Chiến Thứ Nhất.
Một băng hình song ngữ Việt-Anh vừa được nhóm Wisdom Today thực hiện trình bày về tình hình Phật Giáo tại Hoa Kỳ hiện nay, trong đó phần chính là cuộc phỏng vấn Giáo sư Lewis Lancaster. Giáo Sư là người hướng dẫn thành lập Đại Học University of The West và là Chủ Tịch Ủy Ban Luận Án của Đại Học này kể từ năm 1992
Tổng thống Trump vừa đến thăm Nhà thờ Anh Giáo Cải Cách St. John, nằm đối diện Tòa Bạch Ốc, chỉ một ngày sau khi một đám cháy phát lên dưới tầng hầm của tòa nhà lịch sử giữa rừng lửa biểu tình phản đối cái chết của George Floyd, người bị giết chết trong tay cảnh sát thành phố Minneapolis. Trước khi đến nhà thờ, nơi các tổng thống Hoa Kỳ đã dự thánh lễ kể từ thời James Madison, Trump đã có bài phát biểu tại Tòa Bạch Ốc nhấn mạnh tầm quan trọng của luật pháp và trật tự. Cảnh sát liên bang sau đó đã sử dụng vũ lực để dọn sạch biển người biểu tình ôn hòa từ các đường phố giữa Tòa Bạch Ốc đến nhà thờ, để Trump có thể thực hiện chuyến thăm viếng. Tôi thật sự rất giận, Budde nói trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại không lâu sau đó, bà dừng lại giữa những từ để nhấn mạnh sự tức giận trong khi giọng bà run lên.
Trong khi đó, luật sư của gia đình Flyod là Ben Grump đưa ra lời kêu gọi nước Mỹ hãy chấm dứt bạo động và phá hoại hiện nay theo sau các cuộc biểu tình lan rộng. “Chúng tôi hiểu sự giận dữ chính đáng… Nhưng bạo động thì hoàn toàn không thể chấp nhận được. Không thể chấp nhận với George và không thể chấp nhận với chúng tôi,” theo Crump phát biểu. Crump nói trực tiếp với những người biểu tình: “Hãy thở cho George. Hãy thở cho hòa bình. Hãy thở cho công lý. Hãy thở cho sự chữa lành đất nước của chúng ta.”
Thượng Nghị Sĩ Whip John Thune nói với CNN rằng ông tin là TT Trump nên có “giọng điệu” khác khi giải quyết chuyện quốc gia trong lúc bất ổn này theo sau cái chết của George Flyod. “Tôi nghĩ đất nước thật sự đang tìm cách hòa giải và làm lắng dịu,” theo ông cho biết. “Và tôi nghĩ rằng giọng điệu mà Tổng Thống cần trù liệu khi nói về điều đang xảy ra khắp nước. Tôi nghĩ những nhà lãnh đạo cần phải đồng cảm và nhân đạo và tôn trọng.” Thượng Nghị Sĩ John Cornyn, thành viên lãnh đạo Cộng Hòa tại Thượng Viện, nói rằng ông tin là Trump nên giải quyết chuyện đất nước “nhanh hơn thay vì chậm hơn.” Ông nghĩ rằng Trump cần đưa ra thông điệp đoàn kết giữa lúc bất ổn sâu xa khắp đất nước.
Các chuyên gia được thuê bởi gia đình George Flyod và Nhà Khám Nghiệm Tử Thi Quận Hennepin đã kết luận cái chết của ông ấy là giết người, nhưng họ không đồng thuận về nguyên nhân gây ra cái chết, theo CNN cho biết hôm Thứ Hai, 1 tháng 6. Người khám nghiệm tử thi độc lập nói rằng Flyod đã chết vì “ngạt thở từ sức ép duy trì” trong khi cổ và lưng của ông ấy bị đè bởi viên cảnh sát thành phố Minneapolies trong thời gian ông bị bắt vào tuần trước. Sức đè ép đã cắt đứt mạch máu dẫn tới não bộ của ông, điều đó giám quan đã xác định.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.