Hôm nay,  

Song ngữ: Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng // Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

06/01/202508:53:00(Xem: 2940)
blank
 
Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng

Nguyên Giác

Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi.

Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là  Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải  thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.

Lòng tin là cửa đầu tiên để vào đạo, để thực hành pháp. Tại sao có thiền sư nào nói rằng tin Phật sẽ hỏng? Thậm chí có vị còn nói là gặp Phật thì hãy giết Phật. Nhưng cần phải thấy rõ, hễ nghi Phật là tự mình cắt đứt lối vào, là vi phạm ba lời quy y. Trong Thiền Tông, nhiều vị thầy nói rằng người tu phải từ cửa nghi để hiểu đạo, và để vào đạo. Bởi vì đại nghi mới đại ngộ. Sao lại có chuyện như thế? Vấn đề là ngôn ngữ không mô tả được các trạng thái tâm thức cần thiết. Bởi vì, khi các thiền sư nói cần sự nghi ngờ, thì nhiều thiền sư đó cũng đã có lòng tin sâu dày nơi Đức Phật và có nhiều thập niên giữ khối tin và cả nghi trong tâm.

Nên thấy rằng, cái nghi mà một thiền sư Trung Hoa hay Việt Nam nói, không phải là sự nghi ngờ đơn giản về Đức Phật. Chúng ta có thể dẫn Kinh Pháp Cú, tích truyện 97 ra để ghi nhận rằng, trong tích này, 30 vị sư đã nói rằng ngài Sariputta có sự nghi ngờ Đức Phật, không đủ lòng tin Đức Phật. Điều này xảy ra trong khi ngài Sariputta đã thành tựu giải thoát, và là một trong hai đại đệ tử hàng đầu của Đức Phật.

Chúng ta khảo sát trường hợp này, để sẽ thấy rằng đối với người tu thiền, thì ngay trong khi thiền tập, hễ khởi lòng tin Phật hay khởi lòng nghi Phật đều hỏng. Bởi vì tâm của người tu lúc thiền tập phải lìa bất kỳ tiến trình lý luận nào có thể dẫn tới một kết luận rằng phải thế này hay phải thế kia. Chỉ có luận sư mới đi theo tiến trình lý luận để tới kết luận rằng phải tin Phật hay nghi Phật. Thiền sư chân thực sẽ không rơi vào kết luận nào hết, do vậy không dính vào tin Phật hay nghi Phật.

Chỉ đơn giản là, khi ngài Sariputta hướng dẫn 30 vị sư kia thiền tập về các căn, ngài không đặt vấn đề là tin hay nghi. Thiền về các căn, có nghĩa là về những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường. Nơi sáu căn, các sư phải thấy vô thường, khổ, vô ngã. Trong khi các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam nói rằng phải nhìn vào khối nghi, tức là nhìn vào cái được tư lường, tức là nhìn vào tự tâm, sẽ thấy trận gió vô thường đang cuốn trôi tất cả các pháp trong tâm.

Câu chuyện trong Pháp Cú tóm tắt như sau. Khi cư trú tại tu viện Jetavana, Đức Phật đã nói Bài kệ 97 của Kinh Pháp Cú. Ba mươi nhà sư từ một ngôi làng đã đến tu viện Jetavana để tỏ lòng tôn kính Đức Phật. Đức Phật biết rằng thời điểm đã chín muồi để các vị sư này đạt được quả vị A-la-hán. Vì vậy, ngài đã cho gọi Sariputta đến, và trước sự hiện diện của những vị sư đó, Đức Phật đã hỏi, "Này Sariputta, con có chấp nhận sự thật rằng bằng cách thiền định về các căn, người ta có thể chứng ngộ Niết bàn không?"

Ngài Sariputta trả lời, "Bạch Thế Tôn, trong việc chứng ngộ Niết bàn bằng cách thiền định về các căn, không phải là con chấp nhận điều đó vì con có đức tin vào Ngài; chỉ những người chưa đích thân chứng ngộ mới chấp nhận sự kiện đó từ lời người khác."

Câu trả lời của Sariputta không được 30 nhà sư hiểu đúng. Họ nghĩ rằng, "Sariputta vẫn chưa từ bỏ tà kiến. Ngay cả bây giờ, Sariputta vẫn chưa có đức tin vào Đức Phật."

Sau đó, Đức Phật giải thích cho họ ý nghĩa thực sự của câu trả lời của Sariputta. "Các sư, câu trả lời của Sariputta chỉ đơn giản như thế này; Sariputta chấp nhận sự thật rằng Niết bàn được chứng ngộ thông qua thiền định về các căn, nhưng sự chấp nhận của Sariputta là do sự chứng ngộ của chính Sariputta chứ không chỉ vì ta đã nói điều đó hoặc ai đó đã nói điều đó. Sariputta có đức tin vào ta; Sariputta cũng có niềm tin vào hậu quả của những việc làm tốt và xấu."

Sau đó, Đức Phật nói bằng bài kệ như sau, theo tổng hợp các bản dịch của Thầy Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, Bhante Suddhāso:

Bài kệ 97Người đã vượt qua đức tin, đã chứng ngộ Vô Vi, đã cắt đứt mọi ràng buộc tái sinh, đã loại bỏ các hậu quả của những việc làm tốt và xấu, đã rời bỏ ham muốn, chắc chắn là người tối thượng.

Khi Đức Phật nói xong, tất cả các vị sư đó đã đạt được quả vị A la hán. Như thế, Đức Phật nói rằng người tu phải vượt qua đức tin đơn giản, và phải  chứng ngộ pháp Vô Vi.

Chữ Vô Vi này có nghĩa là xa lìa các duyên, và là không hề được tạo ra. Bạn có thể tới rất gần với Vô Vi, nếu bạn nhìn vào tâm bạn, và liên tục nhìn thấy cái tâm biết cái-không-biết. Nghĩa là, bạn biết rằng bạn đang nhìn vào cái tâm của sự không biết. Bởi vì như thế là tâm bạn là bầu trời rỗng rang, không hạn cuộc, không rơi vào bất kỳ kết luận nào. Lúc đó, bạn sẽ không rơi vào một kết luận nào, không mơ tưởng nào, không ước muốn nào.

Trong cái tâm không biết này, không có tham sân si. Bạn liên tục nhìn vào tâm không biết này, bạn thấy sẽ không có niệm nào khởi lên, vì nơi đây là dòng sông vô thường trôi chảy, cuốn sạch hết những gì khởi lên. Nhiều vị thiền sư gọi cái thấy vô thường trôi chảy trong tâm đó là nghi tâm. Chữ “nghi” là một cách mô tả không chính xác, chỉ nên nói rằng tâm này là tâm đã xa lìa mọi kết luận.

Ngay khi bạn thấy rằng “không hề có cái tôi nào đang tin hay đang nghi” thì lúc đó bạn sẽ thấy không có cái “tôi là” và cũng không có cái “tôi không là”... Lúc đó, bạn không thấy trong tâm hiện lên cả tín tâm và nghi tâm.  Bạn xa lìa cả cái có và không, chỉ bằng cách nhìn vào tâm lúc đó. Đó là tại sao 30 vị sư kia sau khi nghe Đức Phật nói, họ thấy rằng họ xa lìa niềm tin, họ ngó vào tâm thấy cái Vô Vi, cái không hề do bất cứ gì kiến tạo lên. Đó là tâm giải thoát.

Ngài Sariputta nói hãy xa lìa niềm tin để thiền định về các căn, nơi đó sẽ có pháp vô vi được nhận ra. Tương tự, các thiền sư Trung Hoa và Việt Nam cũng nói rằng hãy xa lìa niềm tin, mà chúng ta đôi khi gọi là hãy nghi, nhưng chính xác là hãy dùng chữ “thấy tâm không biết” thì sẽ có pháp vô vi nhận ra. Trong cái tâm này, không gọi là tin và cũng không gọi là nghi. Tất cả ngôn ngữ đều tịch lặng, vì chữ không còn hiện ra trong tâm này nữa.

.... o ....

Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

Written and translated by Nguyên Giác

 
This article aims to compare the Dhammapada with Zen Buddhism. It will explore the idea that during meditation, both belief in the Buddha and doubt about the Buddha can lead practitioners astray, resulting in unwholesome dharmas and an inability to perceive the Dharma of Unconditioned.

To enter Buddhism, one must first believe in and take refuge in the Buddha, the Dharma, and the Sangha. Practitioners of the Buddha's teachings must embrace the Four Noble Truths: Suffering, Origin, Extinction, and the Path. In the course of practice, individuals must cultivate faith, morality, knowledge, generosity, and wisdom to eliminate unwholesome dharmas. Therefore, those who lack genuine faith in the Buddha will find it challenging to embark on the long journey toward liberation.

Faith is the first step on the path to practicing the Dharma. Why do Zen masters claim that believing in the Buddha can be detrimental? Some even assert that if you encounter the Buddha, you should kill the Buddha. However, it is essential to recognize that doubting the Buddha is akin to closing off your own entrance and violating the three refuges. In Zen, many masters emphasize that practitioners must navigate through the door of doubt to truly understand and enter the path, as profound doubt can lead to profound enlightenment. Why is this the case? The challenge lies in the fact that language often fails to convey the necessary states of mind. When Zen masters advocate for doubt, many of them have already cultivated a deep faith in the Buddha and have maintained a balance of both faith and doubt in their minds for decades.

It's crucial to realize that the doubt a Chinese or Vietnamese Zen master mentioned wasn't just about the Buddha himself. The Dhammapada, specifically story 97, records thirty monks claiming Sariputta harbored doubts about the Buddha and lacked sufficient faith in him. This assertion is particularly striking considering that Sariputta had already attained liberation and was one of the Buddha's two foremost disciples.

We examine this case to illustrate that for a practitioner, even during meditation, harboring faith in the Buddha or experiencing doubts about the Buddha constitutes a failure. The practitioner's mind during meditation must be free from any reasoning processes that could lead to conclusions, whether affirming or negating. Only a master of reasoning would engage in such processes to arrive at the conclusion that one must either believe in or doubt the Buddha. A true Zen master transcends all conclusions and, therefore, remains uninvolved in faith or doubt regarding the Buddha.

Simply put, when Venerable Sariputta instructed the other thirty monks to meditate on the senses, he did not address the concepts of belief or doubt. Meditating on the senses involves focusing on what is seen, heard, smelled, tasted, touched, and thought about. Through the six senses, the monks must recognize impermanence, suffering, and non-self. While Chinese and Vietnamese Zen masters emphasize the importance of examining the mass of doubt—essentially, reflecting on one's thoughts and the mind itself—this introspection reveals the winds of impermanence sweeping away all the dharmas within the mind.

The story in the Dhammapada is summarized as follows: While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke Verse 97 of the Dhammapada. Thirty monks from a nearby village came to Jetavana to pay homage to the Buddha. The Buddha recognized that the time was ripe for these monks to attain arahantship. Therefore, he summoned Sariputta, and in the presence of those monks, the Buddha asked, "Sariputta, do you accept the truth that by meditating on the senses, one can realize Nibbana?"

Venerable Sariputta replied, "Venerable, sir, in realizing Nibbana through the meditation on the senses, I do not accept it solely based on my faith in you; rather, it is only those who have not personally experienced it who accept that truth from the words of others."

Sariputta's response was misunderstood by the thirty monks. They believed, "Sariputta has not yet relinquished his erroneous views. Even now, Sariputta still lacks faith in the Buddha."

The Buddha then explained to them the true meaning of Sariputta's response. "Monks, Sariputta's answer is simply this: he acknowledges that Nibbana is attained through meditation on the senses. However, Sariputta's acceptance stems from his own realization, not merely because I said so or someone else did. Sariputta has faith in me, and he also believes in the consequences of good and bad deeds."

Then the Buddha spoke in verse as follows, according to the translations by Venerable Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, and Bhante Suddhāso.

Verse 97: He who is not credulous, who has realized the Unconditioned (Nibbana), who has cut off the links of the round of rebirths, who has destroyed all consequences of good and bad deeds, who has discarded all craving, is indeed the noblest of all men (i.e., an arahat). (Translated by Daw Mya Tin)

After listening to the Buddha, all the monks attained the fruit of Arhatship. Therefore, the Buddha emphasized that practitioners must transcend mere faith and truly understand the Dharma of Unconditioned.

The term Unconditioned -- or Unmade or Uncreated -- refers to a state that is free from conditions and is not the result of creation. You can approach Unconditioned by examining your mind and consistently observing the awareness of unknowing. In this state, you recognize that you are contemplating the thought of not knowing.  Consequently, your mind becomes like an empty sky—limitless and free from any conclusions. In this way, you will avoid falling into conclusions, dreams, or desires.

In a mind that embraces not-knowing, there is no greed, anger, or delusion. When you continuously observe this state of not knowing, you will notice that no thoughts arise, for it is akin to a flowing river of impermanence, washing away everything that comes into being. Many Zen masters refer to this fluid perspective of impermanence in the mind as the mind of doubt. However, the term “doubt” is a misleading characterization; it would be more accurate to describe this mind as one that has relinquished all conclusions.

As soon as you see that there is no self that is believing or doubting, then you will see that there is no “I am” and there is no “I am not." At that moment, you will transcend the duality of belief and doubt. By examining the mind at that time, you will find yourself distanced from both existence and non-existence. After listening to the Buddha, the thirty monks discovered their detachment from belief, turned their attention inward, and perceived the Unconditioned, which is not created by anything. This realization leads to a liberated mind.

Venerable Sariputta instructed the monks to relinquish faith and meditate on the senses, where the Unconditioned can be realized. Similarly, Chinese and Vietnamese Zen masters have also advised abandoning faith, which we sometimes refer to as doubt. However, to be precise, it is about perceiving the mind of not knowing; in doing so, the Unconditioned will be realized. In this state of mind, there is neither faith nor doubt. All language becomes silent, as words no longer manifest in this mind.

.... o ....
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Giới khoa học vừa đạt thêm một bước tiến quan trọng trong cuộc chiến chống ung thư: phát hiện một loại protein có thể điều chỉnh để khiến các tế bào ung thư tự hủy diệt từ bên trong. Hai nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Nature đã tập trung làm rõ vai trò của một enzyme mang tên ferroptosis suppressor protein 1 (FSP1). Enzyme này là “lá chắn” quan trọng giúp tế bào tránh một kiểu chết đặc biệt (bị phân rã từ trong ra ngoài). Khi loại bỏ lá chắn này, khả năng sống sót của tế bào giảm mạnh; và nếu đó là tế bào ung thư, khối u sẽ phát triển chậm lại đáng kể.
Nếu muốn “nâng cấp phòng tắm”, bạn có thể chuẩn bị tham gia đấu giá… một chiếc bồn cầu bằng vàng ròng. Tác phẩm nặng hơn 100 ký, chế tác từ vàng 18 karat, là sáng tạo của nghệ sĩ Ý Maurizio Cattelan, người nổi tiếng với các tác phẩm châm biếm và gây tranh cãi. Ông cũng là tác giả của Comedian – trái chuối dán băng keo lên tường, từng bán được 6,2 triệu đô cho một nhà đầu tư tiền ảo. Tác phẩm lần này mang tên America (Nước Mỹ), sẽ được nhà đấu giá Sotheby’s đưa ra vào ngày 18 tháng 11, với giá khởi điểm khoảng 10 triệu đô, tùy theo giá vàng trong ngày. Theo Wall Street Journal, Sotheby’s dự đoán mức giá cuối cùng sẽ vượt xa con số ấy.
Sở Di Trú vẫn tiếp tục hoạt động trong thời gian chính phủ liên bang đóng cửa, tuy nhiên một số hoạt động nhất định, chẳng hạn như phỏng vấn và lễ nhập tịch có thể bị trì hoãn. Phần lớn các đơn nộp cho Sở Di Trú vẫn sẽ được duyệt xét như bình thường.
Gia đình chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin cùng quý thân bằng quyến thuộc và bạn hữu gần xa: Mẹ, Bà Nội, Bà Ngoại, Bà Cố của chúng tôi là: Bà Quả Phụ ĐỖ ĐÌNH HOÀNH Khuê Danh NGUYỄN THỊ HAI Pháp Danh Diệu Thanh Sinh ngày 15 tháng 8 năm 1933 tại Việt Nam Đã từ trần vào lúc 4 giờ sáng ngày 12 tháng 11 năm 2025 (nhằm ngày 23 tháng 9 năm Ất Ty.) tại Bệnh Viện St Mary Long Beach California Hưởng Thọ 93 tuổi
J351. Manikundala Jātaka -- Mọi thứ đều thay đổi - niềm vui chuyển thành nỗi buồn, và cuộc sống luôn thay đổi và mất mát. Tóm tắt: Một cận thần vô tội bị giam nhưng sau đó được nhà vua thả ra và tôn vinh. Đức Phật kể lại câu chuyện về một người đàn ông có liên quan đến cung điện Benares, người bị lưu đày và sau đó thuyết phục một vị vua nước ngoài tấn công đất nước cũ của mình. Thay vì gây ra cái chết của người khác, vua Benares đã chọn đầu hàng một cách tự nguyện. Cảm kích trước đức hạnh của ông, vị vua chiến thắng đã nhượng bộ và trả tự do cho ông.
- Washington Mở Cửa Trở Lại Sau Hơn 40 Ngày Tê Liệt, Nhưng Hệ Thống Liên Bang Cần Thời Gian Để Phục Hồi. - Katie Wilson Đắc Cử Thị Trưởng Seattle, Đánh Dấu Làn Sóng Cấp Tiến Mới. - Giám Mục Hoa Kỳ Chính Thức Cấm Điều Trị Chuyển Giới Tại Các Bệnh Viện Công Giáo. - Donald Trump Phản Ứng Sau Khi Loạt Email Mới Của Jeffrey Epstein Được Công Bố. - Hàng Trăm Người Bị Bắt Trong Chiến Dịch Di Trú Chicago Có Thể Được Tại Ngoại. - Úc Bắt Hai Mẹ Con Người Việt Bị Cáo Buộc Giật Tiền 46 Triệu Đô La Qua Trò “Coi Bói”. - Anh Tạm Ngưng Chia Sẻ Tin Tình Báo Về Tàu Chở Ma Túy Vì Lo Ngại Các Cuộc Không Kích Của Mỹ. - Hạ Viện Sẽ Biểu Quyết Hủy Điều Khoản Cho Phép Thượng Nghị Sĩ Kiện Về Các Cuộc Lục Soát Liên Quan Đến Ngày 6 Tháng 1. - Điều Khoản Lạ Lén Lút Chen Vào Dự Luật Mở Cửa Lại Chính Phủ. - Xì Ammonia Ở Oklahoma: Hơn Ba Chục Người Nhập Viện, Hàng Trăm Phải Di Tản. - Các Cựu Lãnh Đạo FCC Kêu Gọi Bãi Bỏ Quy Định “Bóp Méo Tin Tức”. - Marco Rubio: Hoa Kỳ Có Thể Từ Chối Visa Vì
Với số phiếu 222-209, Hạ Viện tối thứ Tư đã thông qua dự luật chi tiêu để mở lại chính phủ. Khoảng 9 giờ 45 phút tối nay, Trump sẽ ký, chấm dứt thời gian đóng cửa chính phủ dài nhất trong lịch sử quốc gia, 43 ngày.
Tại phiên họp thường niên mùa thu, hàng giáo phẩm Công Giáo Hoa Kỳ đã thông qua một tuyên bố đặc biệt về di dân, với số phiếu gần như tuyệt đối. Đây là hành động mục vụ mạnh mẽ nhất của các giám mục trong nhiều năm qua, nhắm đến chiến dịch trục xuất quy mô lớn của chính quyền Trump. Tuyên bố không nêu đích danh Tổng thống Trump. Nhưng nội dung phê phán rõ rệt các biện pháp cưỡng chế hiện hành và đưa ra lập luận luân lý: Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ phản đối mạnh mẽ đường lối cưỡng chế di dân đang được áp dụng.
- Hạ Viện Công Bố Email Epstein: ‘Trump Đã Ở Nhà Tôi Nhiều Giờ với Một Nạn Nhân (tình dục)'. - Hạ Viện Tin Tưởng Sẽ Bỏ Phiếu Mở Cửa Chính Phủ Tối Nay. - Cháu Trai Của Cố Tổng Thống JFK Ứng Cử Vào Quốc Hội 2026. - Lưỡng Đảng Dự Đoán Hôm Nay Sẽ Có Đủ Chữ Ký Công Khai Hồ Sơ Epstein. - Trump: ‘Nước Mỹ Thiếu Nhân Tài’. - Đổi Tên Bộ Quốc Phòng Tốn Khoảng $2 tỷ. - Hơn 850 Chuyến Bay Ở Mỹ Bị Hủy Đầu Ngày Thứ Tư. - Trump Thúc Giục Israel Ân Xá Netanyahu. - Việt Nam Hy Vọng Sớm Đạt Thỏa Thuận Thuế Quan.
- Mamdani: sẽ phone cho Trump để NYC không bị Trump trù dập - Nghị viên NYC mời Netanyahu tới NYC vào tết tây 2026, thách Mamdani dám bắt - Nhiều dân gốc Do thái bị bạn bè rầy vì bầu cho Mamdani làm thị trường NYC - Thống đốc NY không giúp Mamdani vụ miễn phí xe buýt NYC - 100 triệu đôla đổ vào bất động sản Florida khi hàng trăm ngàn người giàu NYC di tản để né thuế - CEO của Bank of America muốn giúp Mamdani
- Trump Xử Lý Khủng Hoảng Nhân Sự Hàng Không Như Một ‘Gameshow’. - Cựu Tổng Thống Obama Bất Ngờ Chào Đón Cựu Chiến Binh Ở Washington. - Trump Gõ Cửa TCPV Đòi Lật Phán Quyết Chiến Thắng Của Nhà Văn E. Jean Carroll. - Lãnh Đạo Hạ Viện Chuck Schumer Đối Diện Làn Sóng ‘Truất Phế’. - Utah Bác Bỏ Kế Hoạch Vẽ Lại Bản Đồ Quốc Hội Của Đảng Cộng Hòa. - FDA Gỡ Bỏ Cảnh Báo Lâu Nay Trên Thuốc Mãn Kinh, Bất Chấp Lo Ngại Từ Chuyên Gia. - Đánh bom tự sát ở thủ đô Pakistan, 12 người thiệt mạng. - Chính Phủ Anh Ở Giữa Cuộc Chiến Trump Và BBC. ‘001’ Của Squid Game Phần 1 Thoát Án Quấy Rối Tình Dục
J341. Kandari Jātaka -- Không chung thủy sẽ dẫn đến nhiều hậu quả. Tóm tắt: Hoàng hậu Kinnarā, vợ của vua Kaṇḍari xứ Benares, ngoại tình với một người đàn ông tàn tật sống trên cây. Khi bị phát hiện, nhà vua muốn giết chết bà, nhưng vị sư của ông, Pañcālacaṇḍa, giải thích rằng hành vi này đơn giản là bản chất của phụ nữ, và lưu ý rằng ngay cả những phụ nữ trẻ trên thế gian cũng hành động tương tự.
Báo The Independent ghi rằng, theo một báo cáo mới, Bộ Tư pháp đã bị mất nhân sự dưới thời Tổng thống Donald Trump, với hàng ngàn luật sư rời đi và rất ít người được tuyển dụng để thay thế. Kể từ tháng 1, gần 5.500 nhân viên lâu năm của Bộ Tư pháp đã nghỉ việc, nhận tiền bồi thường hoặc bị sa thải, theo Justice Connection, một nhóm vận động bao gồm các cựu nhân viên của Bộ.
"Tuyển tập II chân dung văn nghệ sĩ" là một công trình mới của Nhà văn Ngô Thế Vinh, giới thiệu 18 văn nghệ sĩ và nhà văn hoá thành danh thời trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm, chân dung và chứng từ trong tuyển tập này minh chứng cho một nền văn nghệ nhân bản, năng động và đột phá đã bị bức tử sau biến cố 30/4/1975. Do đó, tuyển tập là một nguồn tham khảo quí báu về di sản của nền văn nghệ và giáo dục thời Việt Nam Cộng Hoà.
Tối Cao Pháp Viện hôm Thứ Hai 10/11 từ chối xét xử vụ kiện tạo cơ hội lật ngược án lệ về hôm nhân đồng giới đã ghi vào hiến pháp trên toàn quốc. Tin cho hay tòa không giải thích lý do đưa ra quyết định này.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.