Hôm nay,  

Song ngữ: Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng // Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

06/01/202508:53:00(Xem: 3479)
blank
 
Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng

Nguyên Giác

Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi.

Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là  Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải  thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.

Lòng tin là cửa đầu tiên để vào đạo, để thực hành pháp. Tại sao có thiền sư nào nói rằng tin Phật sẽ hỏng? Thậm chí có vị còn nói là gặp Phật thì hãy giết Phật. Nhưng cần phải thấy rõ, hễ nghi Phật là tự mình cắt đứt lối vào, là vi phạm ba lời quy y. Trong Thiền Tông, nhiều vị thầy nói rằng người tu phải từ cửa nghi để hiểu đạo, và để vào đạo. Bởi vì đại nghi mới đại ngộ. Sao lại có chuyện như thế? Vấn đề là ngôn ngữ không mô tả được các trạng thái tâm thức cần thiết. Bởi vì, khi các thiền sư nói cần sự nghi ngờ, thì nhiều thiền sư đó cũng đã có lòng tin sâu dày nơi Đức Phật và có nhiều thập niên giữ khối tin và cả nghi trong tâm.

Nên thấy rằng, cái nghi mà một thiền sư Trung Hoa hay Việt Nam nói, không phải là sự nghi ngờ đơn giản về Đức Phật. Chúng ta có thể dẫn Kinh Pháp Cú, tích truyện 97 ra để ghi nhận rằng, trong tích này, 30 vị sư đã nói rằng ngài Sariputta có sự nghi ngờ Đức Phật, không đủ lòng tin Đức Phật. Điều này xảy ra trong khi ngài Sariputta đã thành tựu giải thoát, và là một trong hai đại đệ tử hàng đầu của Đức Phật.

Chúng ta khảo sát trường hợp này, để sẽ thấy rằng đối với người tu thiền, thì ngay trong khi thiền tập, hễ khởi lòng tin Phật hay khởi lòng nghi Phật đều hỏng. Bởi vì tâm của người tu lúc thiền tập phải lìa bất kỳ tiến trình lý luận nào có thể dẫn tới một kết luận rằng phải thế này hay phải thế kia. Chỉ có luận sư mới đi theo tiến trình lý luận để tới kết luận rằng phải tin Phật hay nghi Phật. Thiền sư chân thực sẽ không rơi vào kết luận nào hết, do vậy không dính vào tin Phật hay nghi Phật.

Chỉ đơn giản là, khi ngài Sariputta hướng dẫn 30 vị sư kia thiền tập về các căn, ngài không đặt vấn đề là tin hay nghi. Thiền về các căn, có nghĩa là về những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường. Nơi sáu căn, các sư phải thấy vô thường, khổ, vô ngã. Trong khi các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam nói rằng phải nhìn vào khối nghi, tức là nhìn vào cái được tư lường, tức là nhìn vào tự tâm, sẽ thấy trận gió vô thường đang cuốn trôi tất cả các pháp trong tâm.

Câu chuyện trong Pháp Cú tóm tắt như sau. Khi cư trú tại tu viện Jetavana, Đức Phật đã nói Bài kệ 97 của Kinh Pháp Cú. Ba mươi nhà sư từ một ngôi làng đã đến tu viện Jetavana để tỏ lòng tôn kính Đức Phật. Đức Phật biết rằng thời điểm đã chín muồi để các vị sư này đạt được quả vị A-la-hán. Vì vậy, ngài đã cho gọi Sariputta đến, và trước sự hiện diện của những vị sư đó, Đức Phật đã hỏi, "Này Sariputta, con có chấp nhận sự thật rằng bằng cách thiền định về các căn, người ta có thể chứng ngộ Niết bàn không?"

Ngài Sariputta trả lời, "Bạch Thế Tôn, trong việc chứng ngộ Niết bàn bằng cách thiền định về các căn, không phải là con chấp nhận điều đó vì con có đức tin vào Ngài; chỉ những người chưa đích thân chứng ngộ mới chấp nhận sự kiện đó từ lời người khác."

Câu trả lời của Sariputta không được 30 nhà sư hiểu đúng. Họ nghĩ rằng, "Sariputta vẫn chưa từ bỏ tà kiến. Ngay cả bây giờ, Sariputta vẫn chưa có đức tin vào Đức Phật."

Sau đó, Đức Phật giải thích cho họ ý nghĩa thực sự của câu trả lời của Sariputta. "Các sư, câu trả lời của Sariputta chỉ đơn giản như thế này; Sariputta chấp nhận sự thật rằng Niết bàn được chứng ngộ thông qua thiền định về các căn, nhưng sự chấp nhận của Sariputta là do sự chứng ngộ của chính Sariputta chứ không chỉ vì ta đã nói điều đó hoặc ai đó đã nói điều đó. Sariputta có đức tin vào ta; Sariputta cũng có niềm tin vào hậu quả của những việc làm tốt và xấu."

Sau đó, Đức Phật nói bằng bài kệ như sau, theo tổng hợp các bản dịch của Thầy Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, Bhante Suddhāso:

Bài kệ 97Người đã vượt qua đức tin, đã chứng ngộ Vô Vi, đã cắt đứt mọi ràng buộc tái sinh, đã loại bỏ các hậu quả của những việc làm tốt và xấu, đã rời bỏ ham muốn, chắc chắn là người tối thượng.

Khi Đức Phật nói xong, tất cả các vị sư đó đã đạt được quả vị A la hán. Như thế, Đức Phật nói rằng người tu phải vượt qua đức tin đơn giản, và phải  chứng ngộ pháp Vô Vi.

Chữ Vô Vi này có nghĩa là xa lìa các duyên, và là không hề được tạo ra. Bạn có thể tới rất gần với Vô Vi, nếu bạn nhìn vào tâm bạn, và liên tục nhìn thấy cái tâm biết cái-không-biết. Nghĩa là, bạn biết rằng bạn đang nhìn vào cái tâm của sự không biết. Bởi vì như thế là tâm bạn là bầu trời rỗng rang, không hạn cuộc, không rơi vào bất kỳ kết luận nào. Lúc đó, bạn sẽ không rơi vào một kết luận nào, không mơ tưởng nào, không ước muốn nào.

Trong cái tâm không biết này, không có tham sân si. Bạn liên tục nhìn vào tâm không biết này, bạn thấy sẽ không có niệm nào khởi lên, vì nơi đây là dòng sông vô thường trôi chảy, cuốn sạch hết những gì khởi lên. Nhiều vị thiền sư gọi cái thấy vô thường trôi chảy trong tâm đó là nghi tâm. Chữ “nghi” là một cách mô tả không chính xác, chỉ nên nói rằng tâm này là tâm đã xa lìa mọi kết luận.

Ngay khi bạn thấy rằng “không hề có cái tôi nào đang tin hay đang nghi” thì lúc đó bạn sẽ thấy không có cái “tôi là” và cũng không có cái “tôi không là”... Lúc đó, bạn không thấy trong tâm hiện lên cả tín tâm và nghi tâm.  Bạn xa lìa cả cái có và không, chỉ bằng cách nhìn vào tâm lúc đó. Đó là tại sao 30 vị sư kia sau khi nghe Đức Phật nói, họ thấy rằng họ xa lìa niềm tin, họ ngó vào tâm thấy cái Vô Vi, cái không hề do bất cứ gì kiến tạo lên. Đó là tâm giải thoát.

Ngài Sariputta nói hãy xa lìa niềm tin để thiền định về các căn, nơi đó sẽ có pháp vô vi được nhận ra. Tương tự, các thiền sư Trung Hoa và Việt Nam cũng nói rằng hãy xa lìa niềm tin, mà chúng ta đôi khi gọi là hãy nghi, nhưng chính xác là hãy dùng chữ “thấy tâm không biết” thì sẽ có pháp vô vi nhận ra. Trong cái tâm này, không gọi là tin và cũng không gọi là nghi. Tất cả ngôn ngữ đều tịch lặng, vì chữ không còn hiện ra trong tâm này nữa.

.... o ....

Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

Written and translated by Nguyên Giác

 
This article aims to compare the Dhammapada with Zen Buddhism. It will explore the idea that during meditation, both belief in the Buddha and doubt about the Buddha can lead practitioners astray, resulting in unwholesome dharmas and an inability to perceive the Dharma of Unconditioned.

To enter Buddhism, one must first believe in and take refuge in the Buddha, the Dharma, and the Sangha. Practitioners of the Buddha's teachings must embrace the Four Noble Truths: Suffering, Origin, Extinction, and the Path. In the course of practice, individuals must cultivate faith, morality, knowledge, generosity, and wisdom to eliminate unwholesome dharmas. Therefore, those who lack genuine faith in the Buddha will find it challenging to embark on the long journey toward liberation.

Faith is the first step on the path to practicing the Dharma. Why do Zen masters claim that believing in the Buddha can be detrimental? Some even assert that if you encounter the Buddha, you should kill the Buddha. However, it is essential to recognize that doubting the Buddha is akin to closing off your own entrance and violating the three refuges. In Zen, many masters emphasize that practitioners must navigate through the door of doubt to truly understand and enter the path, as profound doubt can lead to profound enlightenment. Why is this the case? The challenge lies in the fact that language often fails to convey the necessary states of mind. When Zen masters advocate for doubt, many of them have already cultivated a deep faith in the Buddha and have maintained a balance of both faith and doubt in their minds for decades.

It's crucial to realize that the doubt a Chinese or Vietnamese Zen master mentioned wasn't just about the Buddha himself. The Dhammapada, specifically story 97, records thirty monks claiming Sariputta harbored doubts about the Buddha and lacked sufficient faith in him. This assertion is particularly striking considering that Sariputta had already attained liberation and was one of the Buddha's two foremost disciples.

We examine this case to illustrate that for a practitioner, even during meditation, harboring faith in the Buddha or experiencing doubts about the Buddha constitutes a failure. The practitioner's mind during meditation must be free from any reasoning processes that could lead to conclusions, whether affirming or negating. Only a master of reasoning would engage in such processes to arrive at the conclusion that one must either believe in or doubt the Buddha. A true Zen master transcends all conclusions and, therefore, remains uninvolved in faith or doubt regarding the Buddha.

Simply put, when Venerable Sariputta instructed the other thirty monks to meditate on the senses, he did not address the concepts of belief or doubt. Meditating on the senses involves focusing on what is seen, heard, smelled, tasted, touched, and thought about. Through the six senses, the monks must recognize impermanence, suffering, and non-self. While Chinese and Vietnamese Zen masters emphasize the importance of examining the mass of doubt—essentially, reflecting on one's thoughts and the mind itself—this introspection reveals the winds of impermanence sweeping away all the dharmas within the mind.

The story in the Dhammapada is summarized as follows: While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke Verse 97 of the Dhammapada. Thirty monks from a nearby village came to Jetavana to pay homage to the Buddha. The Buddha recognized that the time was ripe for these monks to attain arahantship. Therefore, he summoned Sariputta, and in the presence of those monks, the Buddha asked, "Sariputta, do you accept the truth that by meditating on the senses, one can realize Nibbana?"

Venerable Sariputta replied, "Venerable, sir, in realizing Nibbana through the meditation on the senses, I do not accept it solely based on my faith in you; rather, it is only those who have not personally experienced it who accept that truth from the words of others."

Sariputta's response was misunderstood by the thirty monks. They believed, "Sariputta has not yet relinquished his erroneous views. Even now, Sariputta still lacks faith in the Buddha."

The Buddha then explained to them the true meaning of Sariputta's response. "Monks, Sariputta's answer is simply this: he acknowledges that Nibbana is attained through meditation on the senses. However, Sariputta's acceptance stems from his own realization, not merely because I said so or someone else did. Sariputta has faith in me, and he also believes in the consequences of good and bad deeds."

Then the Buddha spoke in verse as follows, according to the translations by Venerable Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, and Bhante Suddhāso.

Verse 97: He who is not credulous, who has realized the Unconditioned (Nibbana), who has cut off the links of the round of rebirths, who has destroyed all consequences of good and bad deeds, who has discarded all craving, is indeed the noblest of all men (i.e., an arahat). (Translated by Daw Mya Tin)

After listening to the Buddha, all the monks attained the fruit of Arhatship. Therefore, the Buddha emphasized that practitioners must transcend mere faith and truly understand the Dharma of Unconditioned.

The term Unconditioned -- or Unmade or Uncreated -- refers to a state that is free from conditions and is not the result of creation. You can approach Unconditioned by examining your mind and consistently observing the awareness of unknowing. In this state, you recognize that you are contemplating the thought of not knowing.  Consequently, your mind becomes like an empty sky—limitless and free from any conclusions. In this way, you will avoid falling into conclusions, dreams, or desires.

In a mind that embraces not-knowing, there is no greed, anger, or delusion. When you continuously observe this state of not knowing, you will notice that no thoughts arise, for it is akin to a flowing river of impermanence, washing away everything that comes into being. Many Zen masters refer to this fluid perspective of impermanence in the mind as the mind of doubt. However, the term “doubt” is a misleading characterization; it would be more accurate to describe this mind as one that has relinquished all conclusions.

As soon as you see that there is no self that is believing or doubting, then you will see that there is no “I am” and there is no “I am not." At that moment, you will transcend the duality of belief and doubt. By examining the mind at that time, you will find yourself distanced from both existence and non-existence. After listening to the Buddha, the thirty monks discovered their detachment from belief, turned their attention inward, and perceived the Unconditioned, which is not created by anything. This realization leads to a liberated mind.

Venerable Sariputta instructed the monks to relinquish faith and meditate on the senses, where the Unconditioned can be realized. Similarly, Chinese and Vietnamese Zen masters have also advised abandoning faith, which we sometimes refer to as doubt. However, to be precise, it is about perceiving the mind of not knowing; in doing so, the Unconditioned will be realized. In this state of mind, there is neither faith nor doubt. All language becomes silent, as words no longer manifest in this mind.

.... o ....
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thương thay tấm lòng người mẹ suốt 13 năm kiên trì kêu oan cho con. Tiếng kêu thấu trời xanh mà không thấu những “hình người, dạ thú”. Ngày 8 tháng 5 năm 2020, phiên tòa của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao (TANDTC) tại Việt Nam, đã biểu quyết 100% đồng thuận của 17 ông thẩm phán, y án tử hình đối với bị cáo Hồ Duy Hải bằng cách giơ tay, trước ông xếp của họ là Chánh Án Nguyễn Hòa Bình! (Ai dám không giơ tay!) Đây là Phiên Tòa Nội Bộ, vì Luật Sư của bị cáo tuy được gọi vào nhưng khi chưa chính thức thảo luận gì thì đã được mời ra!
Trong những hình ảnh cuối tháng Tư 1975, tôi thấy nhiều bộ đội cụ Hồ đội nón cối hoặc nón tai bèo, mặc bộ quần áo lếch thếch, ngồi chồm hổm trên thảm cỏ hoặc trên thành mấy hồ nước trước dinh Độc Lập; nhóm bộ đội khác vóc nước từ hồ nước bằng hai bàn tay xương xẩu, đưa lên miệng uống rồi vóc thêm nước, rửa mặt; nhóm bộ đội khác nữa thì cởi đôi dép râu, thọc đôi chân còi cọc và dơ bẩn vào hồ nước để rửa chân? Nhiều hình chụp các anh bộ đội cụ Hồ trông rất “hồ hởi”, tay xách con gà, con vịt, trên vai gánh hai cái rương nhỏ, lưng mang ba lô, bên trên kèm theo một búp bê bằng nhựa. Tôi cũng thấy hình từng đoàn xe tải chở tủ lạnh/ TV/radio/bàn ghế/giường/tủ/xe gắng máy, v.v… – những hiện vật của miền Nam vừa được bộ đội cụ Hồ “giải phóng” – ồ ạc và liên tục chạy về Bắc
"món quà lớn nhất tặng mẹ trong mùa Lễ Mẹ năm nay là hãy tránh xa mẹ," theo lời Bác sĩ Grant Colfax, Giám đốc Sổ Y Tế Công Cộng San Francisco. --- Hãy mời mẹ xem video về mẹ, hãy đọc ca dao về mẹ...
Mỹ đã đưa 2 tàu chiến vào vùng biển đang có căng thẳng giữa Mã Lai và Trung Cộng trên Biển Đông, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết hôm 9 tháng 5. Bản tin RFA cho biết chi tiết vụ việc này như sau. Hải quân Hoa Kỳ vừa điều hai tàu chiến đến tuần tra gần khu vực căng thẳng giữa Trung Quốc và Malaysia ở Biển Đông. Trang tin của Học viện Hải quân Hoa Kỳ - USNI trích lời của giới chức Hải quân Hoa Kỳ cho biết như vậy hôm 8/5. Đây là lần thứ hai trong vòng 1 tháng, Hoa Kỳ điều tàu chiến đến khu vực Biển Đông, thách thức Trung Quốc. Trong lần triển khai mới nhất, Hải quân Mỹ đã điều tàu USS Montgomery và USNS Cesar Chavez đến gần khu vực tàu khoan dầu West Capella đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Malaysia vào hôm 7 tháng 5. Hải quân Trung Quốc trong nhiều tuần qua đã điều tàu chiến và hải cảnh đến gần khu vực này.
Bác Sĩ Robert Redfield, lãnh đạo Trung Tâm Kiểm Soát và Ngăn Ngừa Bệnh Tật Hoa Kỳ (CDC), sẽ tự cách ly trong 2 tuần sau khi ông đã tiếp xúc với một người tại Bạch Ốc mà người đó đã thử nghiệm dương tính với Covid-19, theo một phát ngôn viên của CDC xác nhận với CNN. Báo Washington Post đưa tin trước nhất về việc này. “Giám Đốc CDC Bác Sĩ Robert Redfield đã được xác định có tiếp xúc với nguy cơ thấp hôm 6 tháng 5 với một người tại Bạch Ốc mà người đó bị lây COVID-19. Ông hiện cảm thấy bình thường, và không có triệu chứng gì. Ông sẽ làm việc qua hệ thống viễn thông trong 2 tuần tới,” theo một phát ngôn viên cho biết như thế.
LGT: Cuộc phỏng vấn này được Giáo sư Phạm Thị Huê và Xướng ngôn viên Nhã Lan thực hiện cho Chương trình Trường Trường Đời trong dịp Tết Canh Tý 2020, với nhan đề “Mùa Xuân Quê Hương” cho Đài Little Saigon Radio và Hồn Việt TV. Việt Báo xin chia sẻ cuộc phỏng vấn với độc giả trong dịp 45 năm Quốc Hận và Lễ Mẹ 2020, để cùng những thế hệ trẻ chiêm niệm về trọng trách nuôi dưỡng những hạt mầm Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới cho một Việt Nam tự do, dân chủ, nhân vị.
Hưởng ứng công tác cứu trợ trong thời gian bệnh dịch Covid-19, tại Quán Cơm Chay Từ Thiện số 9098 Bolsa Ave vào lúc 10 giờ sáng Thứ Tư ngày 6 tháng 5 năm 2020 rất đông quân nhân các cấp thuộc Lữ Đoàn I Cali trực thuộc Quân Đoàn Trừ Bị Quốc Gia đã phối hợp cùng Sư Cô Thích Nữ Hoa Liên tổ chức phân phát hàng trăm bữa ăn cho những người già neo đơn và những người vô gia cư.
Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tức Bắc Việt Nam công khai họp đại hội tuyên bố mở cuộc chiến, xân lăng Việt Nam Cộng Hòa tức Nam Việt Nam dưới chiêu bài thống nhứt đất nước và chống Mỹ cứu nước, trong khi Lê Duẩn chủ trương: “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng nhà nước cộng sản Việt Nam từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.) Một nhân vật tầm cỡ ngoại trưởng như ông Nguyễn Mạnh Cầm xác nhận công khai như thế thì không sai vào đâu được.
Hồ Duy Hải bị xử giữ y án tử hình dù vụ án còn nhiều chi tiết nghi ngờ chưa được điều tra tường tận và thiếu bằng chứng, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết hôm 8 tháng 5 năm 2020. Bản tin RFA cho biết chi tiết sự việc như sau. Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam vào ngày 8 tháng 5 tuyên giữ nguyên bản án tử hình đối với anh Hồ Duy Hải tại phiên xử theo thủ tục giám đốc thẩm bắt đầu từ ngày 6 tháng 5 vừa qua. Truyền thông Nhà nước Việt Nam loan tin cho biết Hội đồng Thẩm phán gồm 17 người thống nhất bác kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm Sát Nhân dân Tối cao, giữ nguyên bản án mà hai tòa sơ thẩm và phúc thẩm tuyên đối với anh Hồ Duy Hải.
Vẫn còn thời gian để nạp thông tin trương mục ngân hàng của bạn cho Sở Thuế (IRS) để nhận $1,200 tiền giúp khẩn cấp nhanh hơn. Nhưng cửa đó sẽ đóng, theo IRS cho biết hôm Thứ Sáu, 8 tháng 5. Người Mỹ có đủ điều kiện để nhận số tiền nói trên hiện vẫn còn thời gian cho đến trưa Thứ Tư, 13 tháng 5, để nhận tiền nhanh hơn bằng cách nạp thông tin bỏ tiền trực tiếp trên trang mạng Get My Payment. Sau kỳ hạn chót đó, chính phủ sẽ bắt đầu gửi hàng triệu ngân phiếu in bằng giấy mà sẽ tới vào cuối tháng này và trong tháng 6.
Tổng Thống Trump xác nhận hôm Thứ Sáu, 8 tháng 5 rằng thư ký của PTT Pence là Katie Miller, đã thử nghiệm dương tính với vi khuẩn corona, theo CNN tường trình. Miller hiện là nhân viên thứ 2 của Bạch Ốc được biết đã thử nghiệm dương tính với vi khuẩn corona trong tuần này, sau khi một trong những người phục vụ riêng của TT Trump đã thử nghiệm dương tính hôm Thứ Năm. “Cô ấy là một phụ nữ tuyệt vời, Katie, đã thử nghiệm rất tốt qua thời gian dài và rồi tất cả đột nhiên hôm nay cô đã thử nghiệm dương tính,” theo Trump nói thế trong cuộc họp với các thành viên Quốc Hội Cộng Hòa tại Bạch Ốc.
Thống Đốc California Gavin Newsom tuyên bố hôm Thứ Sáu, 8 tháng 5 rằng ông đã ký sắc lệnh hành pháp để gửi lá phiếu bầu cử tới cho 20.6 triệu cử tri đã ghi danh của tiểu bang, cho rằng bởi vì các nguy cơ sức khỏe tiềm ẩn do đại dịch vi khuẩn corona đang tiếp diễn. “Có nhiều hào hứng trong cuộc bầu cử tháng 11 này về việc đảm bảo rằng bạn có thể tự mình thực hiện một cách an toàn và đảm bảo sức khỏe của bạn được bảo vệ,” theo ông Newsom cho biết hôm Thứ Sáu.
Hôm Thứ Năm, công tố viên thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Timothy Shea, đã lập hồ sơ bãi bỏ việc truy tố cựu cố vấn an ninh quốc gia Michael Flynn, người mà, trong vụ điều tra của công tố viên đặc biệt Robert Mueller, đã nhận tội khai man với FBI nhưng sau đó đã rút lại lời nhận tội. Sự thay đổi đến nhiều giờ sau khi trưởng công tố, Brandon Van Grack, rút ra khỏi vụ kiện, trao nó vào tay cho một trong những cựu cố vấn hàng đầu của Bộ Truởng Tư Pháp William Barr. Tổng Thống Donald Trump đã thúc đẩy nhiều năm qua nhiều twitter của ông, qua các tuyên bố công khai, và can thiệp cá nhân với các viên chức đứng đầu Bộ Tư Pháp đối với vụ kiện của Flynn để được bãi bỏ, theo bản tin của https://slate.com cho biết hôm 7 tháng 5 năm 2020.
Chùa Bát Nhã tọa lạc tại số 4717 W 1st ST, Santa Ana, cũng là văn phòng thường trực của Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ do Hòa Thượng Thích Nguyên Trí, Phó Chủ Tịch Nội Vụ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK làm Viện Chủ đã long trọng tổ chức Đại Lễ Phật Đản Phật Lịch 2564-2020 vào lúc 11 giờ trưa Thứ Năm ngày 7 tháng 5 năm 2020 (nhằm ngày Rằm Tháng Tư âm lịch). Buổi lễ diễn ra trước tình hình dịch bệnh nên số người tham dự rất hạn chế để giữ đúng nguyên tắc giữ khoảng cách xã hội mà chính quyền đã ban hành, ngoài một số chư tôn đức tăng, ni trong chùa, số ít đông hương Phật tử tham dự. Buổi lễ dưới sự chứng minh của HT. Thích Nguyên Trí Viện Chủ, Trưởng Ban Tổ Chức Đại Lễ Phật Đản. (Buổi lễ cũng được trực tiếp truyền đi trên online để đồng hương không tham dự được cùng làm lễ tại nhà.)
Xin nhớ rằng, Cơ Quan Điều Tra Dân Số Hoa Kỳ không được công bố thông tin điều tra dân số thu thập được dưới bất kỳ hình thức nào hoặc sử dụng để chống lại quý vị hoặc bất kỳ ai trong gia đình quý vị và theo luật, không được chia sẻ thông tin này với bất kỳ cơ quan chính phủ hoặc cơ quan thực thi pháp luật nào khác.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.