Hôm nay,  

Song ngữ: Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng // Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

06/01/202508:53:00(Xem: 3289)
blank
 
Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng

Nguyên Giác

Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi.

Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là  Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải  thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.

Lòng tin là cửa đầu tiên để vào đạo, để thực hành pháp. Tại sao có thiền sư nào nói rằng tin Phật sẽ hỏng? Thậm chí có vị còn nói là gặp Phật thì hãy giết Phật. Nhưng cần phải thấy rõ, hễ nghi Phật là tự mình cắt đứt lối vào, là vi phạm ba lời quy y. Trong Thiền Tông, nhiều vị thầy nói rằng người tu phải từ cửa nghi để hiểu đạo, và để vào đạo. Bởi vì đại nghi mới đại ngộ. Sao lại có chuyện như thế? Vấn đề là ngôn ngữ không mô tả được các trạng thái tâm thức cần thiết. Bởi vì, khi các thiền sư nói cần sự nghi ngờ, thì nhiều thiền sư đó cũng đã có lòng tin sâu dày nơi Đức Phật và có nhiều thập niên giữ khối tin và cả nghi trong tâm.

Nên thấy rằng, cái nghi mà một thiền sư Trung Hoa hay Việt Nam nói, không phải là sự nghi ngờ đơn giản về Đức Phật. Chúng ta có thể dẫn Kinh Pháp Cú, tích truyện 97 ra để ghi nhận rằng, trong tích này, 30 vị sư đã nói rằng ngài Sariputta có sự nghi ngờ Đức Phật, không đủ lòng tin Đức Phật. Điều này xảy ra trong khi ngài Sariputta đã thành tựu giải thoát, và là một trong hai đại đệ tử hàng đầu của Đức Phật.

Chúng ta khảo sát trường hợp này, để sẽ thấy rằng đối với người tu thiền, thì ngay trong khi thiền tập, hễ khởi lòng tin Phật hay khởi lòng nghi Phật đều hỏng. Bởi vì tâm của người tu lúc thiền tập phải lìa bất kỳ tiến trình lý luận nào có thể dẫn tới một kết luận rằng phải thế này hay phải thế kia. Chỉ có luận sư mới đi theo tiến trình lý luận để tới kết luận rằng phải tin Phật hay nghi Phật. Thiền sư chân thực sẽ không rơi vào kết luận nào hết, do vậy không dính vào tin Phật hay nghi Phật.

Chỉ đơn giản là, khi ngài Sariputta hướng dẫn 30 vị sư kia thiền tập về các căn, ngài không đặt vấn đề là tin hay nghi. Thiền về các căn, có nghĩa là về những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường. Nơi sáu căn, các sư phải thấy vô thường, khổ, vô ngã. Trong khi các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam nói rằng phải nhìn vào khối nghi, tức là nhìn vào cái được tư lường, tức là nhìn vào tự tâm, sẽ thấy trận gió vô thường đang cuốn trôi tất cả các pháp trong tâm.

Câu chuyện trong Pháp Cú tóm tắt như sau. Khi cư trú tại tu viện Jetavana, Đức Phật đã nói Bài kệ 97 của Kinh Pháp Cú. Ba mươi nhà sư từ một ngôi làng đã đến tu viện Jetavana để tỏ lòng tôn kính Đức Phật. Đức Phật biết rằng thời điểm đã chín muồi để các vị sư này đạt được quả vị A-la-hán. Vì vậy, ngài đã cho gọi Sariputta đến, và trước sự hiện diện của những vị sư đó, Đức Phật đã hỏi, "Này Sariputta, con có chấp nhận sự thật rằng bằng cách thiền định về các căn, người ta có thể chứng ngộ Niết bàn không?"

Ngài Sariputta trả lời, "Bạch Thế Tôn, trong việc chứng ngộ Niết bàn bằng cách thiền định về các căn, không phải là con chấp nhận điều đó vì con có đức tin vào Ngài; chỉ những người chưa đích thân chứng ngộ mới chấp nhận sự kiện đó từ lời người khác."

Câu trả lời của Sariputta không được 30 nhà sư hiểu đúng. Họ nghĩ rằng, "Sariputta vẫn chưa từ bỏ tà kiến. Ngay cả bây giờ, Sariputta vẫn chưa có đức tin vào Đức Phật."

Sau đó, Đức Phật giải thích cho họ ý nghĩa thực sự của câu trả lời của Sariputta. "Các sư, câu trả lời của Sariputta chỉ đơn giản như thế này; Sariputta chấp nhận sự thật rằng Niết bàn được chứng ngộ thông qua thiền định về các căn, nhưng sự chấp nhận của Sariputta là do sự chứng ngộ của chính Sariputta chứ không chỉ vì ta đã nói điều đó hoặc ai đó đã nói điều đó. Sariputta có đức tin vào ta; Sariputta cũng có niềm tin vào hậu quả của những việc làm tốt và xấu."

Sau đó, Đức Phật nói bằng bài kệ như sau, theo tổng hợp các bản dịch của Thầy Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, Bhante Suddhāso:

Bài kệ 97Người đã vượt qua đức tin, đã chứng ngộ Vô Vi, đã cắt đứt mọi ràng buộc tái sinh, đã loại bỏ các hậu quả của những việc làm tốt và xấu, đã rời bỏ ham muốn, chắc chắn là người tối thượng.

Khi Đức Phật nói xong, tất cả các vị sư đó đã đạt được quả vị A la hán. Như thế, Đức Phật nói rằng người tu phải vượt qua đức tin đơn giản, và phải  chứng ngộ pháp Vô Vi.

Chữ Vô Vi này có nghĩa là xa lìa các duyên, và là không hề được tạo ra. Bạn có thể tới rất gần với Vô Vi, nếu bạn nhìn vào tâm bạn, và liên tục nhìn thấy cái tâm biết cái-không-biết. Nghĩa là, bạn biết rằng bạn đang nhìn vào cái tâm của sự không biết. Bởi vì như thế là tâm bạn là bầu trời rỗng rang, không hạn cuộc, không rơi vào bất kỳ kết luận nào. Lúc đó, bạn sẽ không rơi vào một kết luận nào, không mơ tưởng nào, không ước muốn nào.

Trong cái tâm không biết này, không có tham sân si. Bạn liên tục nhìn vào tâm không biết này, bạn thấy sẽ không có niệm nào khởi lên, vì nơi đây là dòng sông vô thường trôi chảy, cuốn sạch hết những gì khởi lên. Nhiều vị thiền sư gọi cái thấy vô thường trôi chảy trong tâm đó là nghi tâm. Chữ “nghi” là một cách mô tả không chính xác, chỉ nên nói rằng tâm này là tâm đã xa lìa mọi kết luận.

Ngay khi bạn thấy rằng “không hề có cái tôi nào đang tin hay đang nghi” thì lúc đó bạn sẽ thấy không có cái “tôi là” và cũng không có cái “tôi không là”... Lúc đó, bạn không thấy trong tâm hiện lên cả tín tâm và nghi tâm.  Bạn xa lìa cả cái có và không, chỉ bằng cách nhìn vào tâm lúc đó. Đó là tại sao 30 vị sư kia sau khi nghe Đức Phật nói, họ thấy rằng họ xa lìa niềm tin, họ ngó vào tâm thấy cái Vô Vi, cái không hề do bất cứ gì kiến tạo lên. Đó là tâm giải thoát.

Ngài Sariputta nói hãy xa lìa niềm tin để thiền định về các căn, nơi đó sẽ có pháp vô vi được nhận ra. Tương tự, các thiền sư Trung Hoa và Việt Nam cũng nói rằng hãy xa lìa niềm tin, mà chúng ta đôi khi gọi là hãy nghi, nhưng chính xác là hãy dùng chữ “thấy tâm không biết” thì sẽ có pháp vô vi nhận ra. Trong cái tâm này, không gọi là tin và cũng không gọi là nghi. Tất cả ngôn ngữ đều tịch lặng, vì chữ không còn hiện ra trong tâm này nữa.

.... o ....

Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

Written and translated by Nguyên Giác

 
This article aims to compare the Dhammapada with Zen Buddhism. It will explore the idea that during meditation, both belief in the Buddha and doubt about the Buddha can lead practitioners astray, resulting in unwholesome dharmas and an inability to perceive the Dharma of Unconditioned.

To enter Buddhism, one must first believe in and take refuge in the Buddha, the Dharma, and the Sangha. Practitioners of the Buddha's teachings must embrace the Four Noble Truths: Suffering, Origin, Extinction, and the Path. In the course of practice, individuals must cultivate faith, morality, knowledge, generosity, and wisdom to eliminate unwholesome dharmas. Therefore, those who lack genuine faith in the Buddha will find it challenging to embark on the long journey toward liberation.

Faith is the first step on the path to practicing the Dharma. Why do Zen masters claim that believing in the Buddha can be detrimental? Some even assert that if you encounter the Buddha, you should kill the Buddha. However, it is essential to recognize that doubting the Buddha is akin to closing off your own entrance and violating the three refuges. In Zen, many masters emphasize that practitioners must navigate through the door of doubt to truly understand and enter the path, as profound doubt can lead to profound enlightenment. Why is this the case? The challenge lies in the fact that language often fails to convey the necessary states of mind. When Zen masters advocate for doubt, many of them have already cultivated a deep faith in the Buddha and have maintained a balance of both faith and doubt in their minds for decades.

It's crucial to realize that the doubt a Chinese or Vietnamese Zen master mentioned wasn't just about the Buddha himself. The Dhammapada, specifically story 97, records thirty monks claiming Sariputta harbored doubts about the Buddha and lacked sufficient faith in him. This assertion is particularly striking considering that Sariputta had already attained liberation and was one of the Buddha's two foremost disciples.

We examine this case to illustrate that for a practitioner, even during meditation, harboring faith in the Buddha or experiencing doubts about the Buddha constitutes a failure. The practitioner's mind during meditation must be free from any reasoning processes that could lead to conclusions, whether affirming or negating. Only a master of reasoning would engage in such processes to arrive at the conclusion that one must either believe in or doubt the Buddha. A true Zen master transcends all conclusions and, therefore, remains uninvolved in faith or doubt regarding the Buddha.

Simply put, when Venerable Sariputta instructed the other thirty monks to meditate on the senses, he did not address the concepts of belief or doubt. Meditating on the senses involves focusing on what is seen, heard, smelled, tasted, touched, and thought about. Through the six senses, the monks must recognize impermanence, suffering, and non-self. While Chinese and Vietnamese Zen masters emphasize the importance of examining the mass of doubt—essentially, reflecting on one's thoughts and the mind itself—this introspection reveals the winds of impermanence sweeping away all the dharmas within the mind.

The story in the Dhammapada is summarized as follows: While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke Verse 97 of the Dhammapada. Thirty monks from a nearby village came to Jetavana to pay homage to the Buddha. The Buddha recognized that the time was ripe for these monks to attain arahantship. Therefore, he summoned Sariputta, and in the presence of those monks, the Buddha asked, "Sariputta, do you accept the truth that by meditating on the senses, one can realize Nibbana?"

Venerable Sariputta replied, "Venerable, sir, in realizing Nibbana through the meditation on the senses, I do not accept it solely based on my faith in you; rather, it is only those who have not personally experienced it who accept that truth from the words of others."

Sariputta's response was misunderstood by the thirty monks. They believed, "Sariputta has not yet relinquished his erroneous views. Even now, Sariputta still lacks faith in the Buddha."

The Buddha then explained to them the true meaning of Sariputta's response. "Monks, Sariputta's answer is simply this: he acknowledges that Nibbana is attained through meditation on the senses. However, Sariputta's acceptance stems from his own realization, not merely because I said so or someone else did. Sariputta has faith in me, and he also believes in the consequences of good and bad deeds."

Then the Buddha spoke in verse as follows, according to the translations by Venerable Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, and Bhante Suddhāso.

Verse 97: He who is not credulous, who has realized the Unconditioned (Nibbana), who has cut off the links of the round of rebirths, who has destroyed all consequences of good and bad deeds, who has discarded all craving, is indeed the noblest of all men (i.e., an arahat). (Translated by Daw Mya Tin)

After listening to the Buddha, all the monks attained the fruit of Arhatship. Therefore, the Buddha emphasized that practitioners must transcend mere faith and truly understand the Dharma of Unconditioned.

The term Unconditioned -- or Unmade or Uncreated -- refers to a state that is free from conditions and is not the result of creation. You can approach Unconditioned by examining your mind and consistently observing the awareness of unknowing. In this state, you recognize that you are contemplating the thought of not knowing.  Consequently, your mind becomes like an empty sky—limitless and free from any conclusions. In this way, you will avoid falling into conclusions, dreams, or desires.

In a mind that embraces not-knowing, there is no greed, anger, or delusion. When you continuously observe this state of not knowing, you will notice that no thoughts arise, for it is akin to a flowing river of impermanence, washing away everything that comes into being. Many Zen masters refer to this fluid perspective of impermanence in the mind as the mind of doubt. However, the term “doubt” is a misleading characterization; it would be more accurate to describe this mind as one that has relinquished all conclusions.

As soon as you see that there is no self that is believing or doubting, then you will see that there is no “I am” and there is no “I am not." At that moment, you will transcend the duality of belief and doubt. By examining the mind at that time, you will find yourself distanced from both existence and non-existence. After listening to the Buddha, the thirty monks discovered their detachment from belief, turned their attention inward, and perceived the Unconditioned, which is not created by anything. This realization leads to a liberated mind.

Venerable Sariputta instructed the monks to relinquish faith and meditate on the senses, where the Unconditioned can be realized. Similarly, Chinese and Vietnamese Zen masters have also advised abandoning faith, which we sometimes refer to as doubt. However, to be precise, it is about perceiving the mind of not knowing; in doing so, the Unconditioned will be realized. In this state of mind, there is neither faith nor doubt. All language becomes silent, as words no longer manifest in this mind.

.... o ....
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tên giữa của COVID-19 nên là “tàng hình.” Con người có thể bị nhiễm vi khuẩn từ một tới ba ngày trước khi thấy các triệu chứng - gồm không ho, nhảy mũi hay sốt – trong điều gọi là “truyền nhiễm không có triệu chứng.” Một nghiên cứu của Singapore cho thấy rằng 10% truyền nhiễm là lây lan không có triệu chứng. Nghiên cứu 3,711 hành khách và nhân viên du thuyền Diamond Princess cho thấy rằng 1/5 những người mang bệnh COVID-19 đều không phát triển các triệu chứng. Một số trong những người này lây lan vi khuẩn qua “truyền nhiễm không có triệu chứng.” Tỉ lệ những người bị lây bệnh mà không bao giờ phát triển các triệu chứng có thể nhiều tới 1/3 đối với tổng dân số người trẻ tuổi và mạnh khỏe hơn những người phục vụ trên thuyền. Khả năng lây lan của vi khuẩn rất dễ từ người sang người là lý do tại sao người được yêu cầu giữ khoảng cách vật lý nơi nơi công cộng. Nhưng con ngưiờ vẫn phải đi ra ngoài để mua những nhu yếu phẩm tại những nơi thường có nhiều người đến.
Vài năm trước, bên bàn nhậu, tui có nghe một cha bợm rượu kể lại chuyện sau: Khi còn tại chức, bà Phan Thúy Thanh – phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao của nước CHXHCNVN – có nuôi một con két nói năng rất sõi. Một hôm, chả may, nó sổ lồng bay mất. Bà Thanh nhờ báo đăng để tìm lại con thú cưng nhưng báo chưa ra mà đã có người đến gõ cửa. Hỏi: Sao anh biết là con vẹt này của tôi? Đáp: Nó chối leo lẻo nên nhà cháu biết ngay là của bà chứ còn ai vào đây nữa.
Từ ngày đại dịch cúm Corona Virus lan tràn ra khắp thế giới, lan tới tận nước Mỹ hiền lành, nhiều giới kinh doanh bị ảnh hưởng nặng nề. Ảnh hưởng nhứt vẫn là bà con trong ngành thẩm mỹ, do nghề nghiệp phải tiếp xúc quá gần với khách hàng, nên bắt buộc phải đóng cửa để tránh sự lây lan. Nhìn qua xứ Phật Ấn Độ, Tổng Thống nước họ lên đài truyền hình vừa ban lịnh nội bất xuất ngoại bất nhập 21 ngày trên toàn quốc, vừa ve vuốt năn nỉ người dân “Ở yên trong nhà 21 ngày hay la cà ngoài đường chơi để vi khuẩn corona tấn công lây bịnh chết chóc khiến đất nước phải lùi lại 21 năm, bà con chọn đi”. Ai mà muốn đất nước mình thụt lùi lại mấy chục năm trong khi thế giới tiến bộ từng ngày, vậy là lịnh ban ra, và Cảnh Sát tuôn ra đường với cây roi mây lăm lăm trên tay, để trừng trị những người bất tuân luật pháp tạm thời.Cô Tư coi cảnh quí ngài cảnh sát xứ Ấn quất cây roi mây vô những người dám chạy rong ngoài đường, hay tụ năm tụ ba ngồi tỉnh bơ trước cửa nhà hút thuốc, a lê hấp, vô nhà mà ngồi,
Do tình hình đại dịch Corona virus, để tránh lây lan theo những hướng dẫn, đề nghị của cơ quan Y Tế địa phương và tiểu bang California, văn phòng chính của Hội Đồng Thẩm Mỹ (HĐTM) sẽ đóng cửa không tiếp xúc với công chúng cho tới khi có thông báo mới. Tuy nhiên, văn phòng vẫn mở cửa cho các nhân viên làm việc. Nếu bạn cần gia hạn bằng cấp hành nghề, xin giấy phép môn bài, hoặc thay đổi chi tiết cá nhân xin vui lòng ghi danh với : www.breeze.ca.gov
Thời gian rảnh rổi phải ở nhà tránh lây lan dịch Corona virus, chị em bạn gái không còn có dịp trang điểm hay diện đẹp đi làm đi chơi…, thì chúng ta ở trong nhà cùng gia đình, dọn dẹp nhà cửa cho gọn gàng sạch sẽ, chăm sóc vườn hoa cây trái, những chuyện mà khi bận rộn làm việc, không có nhiều thờì gian, nhất là gần gũi, chăm sóc, chơi đùa với các con. Hơn thế nữa, với đôi bàn tay khéo léo, phụ nữ có thể tự may lấy những tấm khẩu trang che mũi, che miệng, cho người thân trong nhà dùng khi cần ra ngoài đường, đi chợ, đi ngân hàng, đi đổ xăng, đi theo hẹn với bác sĩ nếu có máy may. Nếu may nhiều, dư ra, hãy cho bạn bè không biết may, gởi tặng cho nhà thương nào cần. Khi may khẩu trang, bạn nhớ nên có túi để có thể nhét vào miếng “Filter” có thể lấy ra thải bỏ sau khi dùng thì bác sĩ, y tá, hay nhân viên làm việc trong nhà thương mới dùng được. May rất dễ chỉ cần vải 100% cotton, sợi giây thun, xếp 2, hay 3 li là vừa vặn. Các bạn có thể tìm trên mạng “YouTube” hướng dẫn cách may.
Họng được cấu tạo như thế nào? Cuống họng là một ống cơ bắp lót bằng một màng nhờn, chiều dài khoảng 2.7 phân và kéo dài từ phía sau của mũi tới thực quản.Nó cấu tạo một phần của hai bộ phận khác nhau là hô hấp và tiêu hóa.Không khí và thực phẩm đi qua đó và chúng ta rất ngạc nhiên là sự cộng sinh này xẩy ra êm ả. Họng chia ra làm ba vùng. Phần trên cùng là mũi hầu, bắt đầu từ xoang mũi. Từ đây không khí và các chất tiết từ mũi và các xoang bắt đầu chẩy ra. Phần giữa là họng miệng, rộng nhất của họng. Chính nơi đây, ngay ở dưới vòm miệng, là đường dẫn không khí hợp với hệ thống chuyên trở thực phẩm. Ở phần thấp nhất của họng là hầu thanh quản với các đường hô hấp và tiêu hóa. Vì chúng gặp nhau, có người cho rằng thực phẩm và nước thường thường đi nhầm đường nhiều hơn. Các ống dẫn không khí, bắt dầu từ phiá sau của họng,uốn cong về đằng trước. Ở đó nó trở thành thanh quản với các dây thanh âm.Thanh quản mở vào khí quản rồi lên phổi.
Thị Trưởng Tạ Đức Trí đã tuyên bố về kết quả cuộc bỏ phiếu nói trên như sau: “Một lần nữa, cư dân của thành phố Westminster đã lên tiếng thật rõ ràng và dứt khoát. Chân thành cảm tạ sự ủng hộ vững vàng của quý vị đối với khối đa số trên hội đồng thành phố và tiếp tục đồng hành cùng chúng tôi trong nỗ lực duy trì hình ảnh “All-America City” của thành phố Westminster. Chúng tôi trân quý niềm tin của cử tri dành cho chúng tôi trong việc cải thiện thành phố ngày một tốt đẹp hơn cho mọi gia đình sinh sống và làm việc. Qua lá phiếu của mình, quý cử tri đã trao cho chúng tôi một sứ mạng rõ ràng là tiếp tục trọng trách đại diện cho quyền lợi chính đáng của mọi cư dân trong thành phố. Dù cuộc bầu cử dai dẳng đã có lúc trở nên căng thẳng, quý cư dân vẫn vững tin vào chúng tôi bằng những lá phiếu. Chúng tôi xin chân thành tri ân sự ủng hộ mạnh mẽ này và chúng tôi tâm nguyện sẽ tiếp tục cống hiến, phục vụ cư dân bằng việc cải thiện cung cách làm việc của Tòa Thị Chánh.
Tháng 5, 2017, tại Hội nghị Y tế Toàn cầu WHA (World Health Assembly) ở Geneva, Thụy Sĩ, lần đầu tiên đại diện 194 nước thành viên của Tổ chức Y tế Quốc tế WHO (World Health Organization) đã được quyền bầu trực tiếp người chủ tịch. Sau nhiều tháng tranh cử gay go, ông “Tedros” Adhanom Ghebreyes người Ethiopian đã chiến thắng với 133 phiếu thuận. Người về nhì, Bác sĩ David Nabarro của Anh, được 50 phiếu. Ông Tedros kế nhiệm Bác sĩ Margaret Chan — một công dân Gia Nã Đại gốc Hồng Kông, để trở thành người thứ 8 và người Phi Châu đầu tiên giữ chức vụ quan trọng này.
Thượng Nghị Sĩ Lindsey Graham (CH-South Carolina) và TNS Chris Coons (DC-Delaware) và một nhóm các thượng nghị sĩ lưỡng đảng hôm Thứ Năm đã “khẩn cấp” yêu cầu rằng TQ “lập tức” đóng cửa tất cả cáca hoạt động chợ ướt [chợ bán động vật hoang dã] mà đã bị liên kết với đại dịch vi khuẩn corona, theo bản tin Newsmax cho biết hôm Thứ Năm. Trong một lá thư mà Fox News có được, TNS Graham và TNS Coons thúc giục Đại Sứ TQ Cui Tiankai đóng cửa các chợ để “bảo vệ” thế giới khỏi bị “nguy hiểm sức khỏe thêm nữa.”
New York, trung tâm đại dịch vi khuẩn corona tại Mỹ, đã có mức tăng hàng ngày thấp nhất số người vào bệnh viện kể từ cuộc khủng hoảng bắt đầu, nhưng Thống Đốc Andrew Cuomo cảnh báo rằng tiểu bang mới chỉ ở “đợt sóng đầu,” theo CNN cho biết hôm Thứ Năm, 9 tháng 4. “Bạn vẫn chưa ra khỏi rừng,” ông Cuomo cho biết như vậy trong cuộc họp báo hôm Thứ Năm. “Chúng ta đã làm xong vài điều vĩ đại và chúng ta đã cứu mạng bởi vì chúng ta tuân thủ các chính sách này (như ở trong nhà).”
Phi Luật Tân hôm Thứ Tư bày tỏ tình đoàn kết với Việt Nam sau khi Hà Nội phản đối đều mà họ gọi là tài duyên phòng của Trung Cộng đã đâm chìm tàu cá Việt Nam trong vùng Biển Đông tranh chấp, theo AP cho biết hôm Thứ Năm.
là quốc gia cuối nguồn của dòng Mekong, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam lâu nay đã gánh chịu thiệt hại nặng nề từ những con đập thủy điện phía thượng nguồn. Lần này, Việt Nam nên ứng xử thế nào khi đích thân một doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam nhúng tay vào làm chủ đầu tư con đập Luang Prabang?
Không phải là chuyên gia y tế nên tôi chỉ dịch, thông tin liên quan đến đại dịch Corona bắt nguồn từ Wuhan (vì vậy mới có tên Wuhan-Virus (sic)). Riêng về Y, Dược chỉ dựa theo tin của các chuyên gia về Virus, Bác Sĩ hay giới lãnh đạo trách nhiệm về y tế, điển hình ở Đức là Bộ Y Tế dưới sự lãnh đạo của Bộ Trưởng Jens Spahn (CDU). Cũng nói thêm ông Spahn không làm việc một mình, ông Spahn có ban cố vấn giỏi, có sự cố vấn của Viện Robert Koch (RKI) và nhiều giảng sư y khoa nổi tiếng khác. Bên cạnh đó còn có sự nghiên cứu của các Unis và những hãng chuyên sáng chế thuốc nổi tiếng ở Đức, nói riêng khi cần thiết.
Cho đến ngày 1 Tháng Tư, có 37,9% hộ gia đình ở California điền bảng câu hỏi thống kê dân số, theo Ditas Katague, giám đốc Ủy Ban Complete Count, qua báo cáo về hội nghị trực tuyến “Ngày Thống Kê Dân Số.” Tỷ lệ tham gia trong toàn quốc hơi cao hơn - 38,4% - nhưng tổng dân số 40 triệu của California gồm có 11 triệu người mà Cục Thống Kê Dân Số cho rằng “khó đếm” - nhiều hơn tất cả cư dân Georgia, Katague nói.
Ban Vận Động Chống Bãi Nhiệm (BVDCBN) nhận được nhiều tin tức liên quan đến “tin đồn” có gian lận bầu cử nhắm vào phía chống bãi nhiệm trong kỳ bầu cử chống bãi nhiệm vừa qua. Những tin đồn này liên hệ đến vấn đề in phiếu bầu ở nhà trong thủ tục xin phiếu bầu khẩn cấp cho cử tri. BVDCBN hoàn toàn không tự động in phiếu bầu trừ khi được chính thức cho phép bởi Phòng Ghi Danh Bầu Cử. Các phiếu bầu tự in này có mã số riêng và chỉ áp dụng cho đích thân các cử tri được cho phép mà thôi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.