Hôm nay,  

Song ngữ: Học Đạo Từ Khi Nằm Nôi // Learning Buddhism from the Cradle

12/01/202507:14:00(Xem: 3124)
blank 

Học Đạo Từ Khi Nằm Nôi
 

Nguyên Giác

 

Khi chúng ta nói rằng nhiều người Việt Nam đã học đạo từ khi nằm nôi, chỉ là một hình ảnh cho thấy Phật giáo đã gắn bó với lịch sử dân tộc Việt Nam từ nhiểu ngàn năm. Nhiều lời dạy trong Kinh Phật đã ăn sâu vào trong chính sử, và cả huyền sử của dân tộc Việt.
 

Huyền sử, tức là những chuyện cổ tích hư cấu, kể rằng dân tộc Việt Nam xuất phát từ khoảng hơn bốn ngàn năm trước, rằng nàng tiên xinh đẹp Âu Cơ từ trên những ngọn núi cao thường xuyên đi lại trên vùng đồng bằng để đem tài năng về y thuật chữa trị những người đang lâm bệnh và gặp khó khăn. Một hôm, một con quái vật làm nàng sợ hãi. Nàng tiên Âu Cơ liền biến thành phượng hoàng mà bay đi. Lúc đó, Lạc Long Quân, là thần rồng từ biển cả, thấy nàng đang gặp nguy hiểm liền hiện ra, cầm lấy cục đá, ném ra và xua đuổi quái vật.
 

Nàng tiên Âu Cơ và thần rồng Lạc Long Quân kết hôn, sinh ra 100 người con. Một ngày nọ, Lạc Long Quân nói với nàng Âu Cơ rằng nàng là tiên và chàng là rồng, nên khó ở chung với nhau trọn đời. Hai người chia nhau, 50 con theo mẹ lên núi và 50 con theo cha xuống biển. Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Mười mấy đời truyền nối vua đều lấy hiệu là Hùng Vương.

Tiền nhân khi nghĩ ra chuyện cổ tích trên, hàm ý nói rằng người Việt đừng nên nghĩ rằng căn cước của mình là tiên, hay là rồng, mà sự thật nên nghĩ là vô ngã. Thêm nữa, sự dị biệt giữa người này với người kia không có thật, vì tất cả chỉ là 100 bọt sóng trong một chùm trứng của mẹ. Tất cả chỉ là một thoáng hiện của vô thường, và rồi là một thoáng tan đi.
 

Do vậy, trong lời dạy cổ điển của Việt Nam có nhiều lời dạy rằng hãy yêu thương người khác như yêu thương chính bản thân mình. Câu “Thương người như thể thương thân” có nghĩa rằng hãy thấy người khác như chính bản thân mình, rằng tất cả ta và người khác chỉ là những chùm ngũ uẩn kết hợp, trống rỗng, không tự ngã, và đều chịu đau khổ. Thấy như thế, lòng từ bi sẽ hiển lộ, sẽ thương người khác như thương chính mình.
 

Từ đó, dân tộc Việt khuyến khích nhau hãy sống với hạnh bố thí. Thí dụ, câu nói phổ biến từ xa xưa là: Một miếng khi đói bằng một gói khi no. Hay là: Lá lành đùm lá rách.
 

Có nhiều thời đại, nếp sống từ bi được vua đưa vào luật để thi hành. Như trường hợp Vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã ghi trong luật rằng, khi trong làng có người bệnh mà không ai nuôi, và người bệnh này phải nằm ngoài đường, thì quan xã phải dựng lều lên để chăm sóc, cho họ cơm cháo, thuốc men, nhằm cứu cho họ sống, không được bỏ mặc cho họ khốn khổ. Nếu bệnh nhân chết, thì quan xã phải trình quan trên và chôn cất. Viên quan nào trái lệnh sẽ bị bãi chức.
 

Phật Giáo đã vào Việt Nam rất sớm, khoảng thế kỷ thứ hai, hay thế kỷ thứ ba theo dương lịch. Theo nghiên cứu của Giáo sư Lê Mạnh Thát, một số Kinh điển Pali được dịch ra tiếng Việt cổ từ trước năm 220 theo dương lịch, trong đó có cuốn Tạp Thí Dụ Kinh mà không rõ người dịch là ai. Các chi tiết về nghiên cứu này ghi trong sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, nơi chương Phật Giáo Sau Thời Hai Bà Trưng (PGSTHBT).
 

Giáo sư Lê Mạnh Thát viết về cội nguồn các cuốn sách Phật học đầu tiên được chuyển từ tiếng Pali sang tiếng Việt cổ: “Ban đầu khi Phật giáo mới truyền vào nước ta, một số truyện có nguồn gốc Phật giáo Ấn Độ xuất phát từ nền văn học bản sinh Phạn văn hay các phương ngôn như Pàli đã được dùng để thuyết minh giáo lý trong những buổi giảng. Một thời gian, một tác giả Việt Nam vô danh nào đó đã tập hợp chúng lại, gồm luôn các truyện có nguồn gốc địa phương và biên tập thành Cựu tạp thí dụ kinh tiếng Việt, để sau đó đã trở thành bản đáy cho Khương Tăng Hội dịch ra tiếng Trung Quốc. Một khi đã thế, người viết các truyện trên không thể ai khác hơn là vị "thánh hiền" Việt Nam sống khoảng giữa thế kỷ thứ nhất và thứ hai sau Dương Lịch, mà ta hiện chưa truy tìm được tên tuổi...” (PGSTHBT)
 

Giáo sư Lê Mạnh Thát ghi nhận rằng sách Tạp Thí Dụ Kinh có một nét nổi bật là nhấn mạnh đến việc cúng dường và những lợi ích của cúng dường. Trong 12 truyện đề cập đến khía cạnh này, có ba truyện nói tới việc cúng dường đức Phật (truyện 10, 17 và 28), có hai truyện nói tới việc cúng dường tháp tượng. Bảy truyện còn lại đề cập tới việc cúng dường cho các đệ tử Phật, các "đạo nhân".
 

Nghiên cứu của GS Lê Mạnh Thát cũng ghi nhận như sau: “Điểm thứ hai là khi nói đến cúng dường, Tạp Thí Dụ Kinh đã có một quan tâm đặc biệt đến những người nghèo, đến những người với những phương tiện hạn chế, như ba tiều phu của truyện 31, thậm chí không có một phương tiện gì như lão mẫu của truyện 3. Đây là một mối quan tâm đặc biệt, bởi vì theo truyện 21, nó là bản nguyện cả vị đệ tử số một của đức Phật, là Ma Ha Ca Diếp. Ca Diếp chỉ muốn "độ người bần cùng, một mình không chịu nhận" sự cúng dường của nhà giàu. Phải nói đó là một nét đặc trưng khá lôi cuốn của bản kinh này. Nó nói lên một thực trạng là vào những ngày tháng đầu tiên lúc mới truyền tới nước ta, Phật giáo đã chọn đứng về phía những người nghèo (truyện 3, 21, 28, 30 và 31), bất hạnh đang khổ đau (truyện 20, 23), không hướng tới những kẻ giàu keo kiệt bủn xỉn (truyện 17), những kẻ ỷ quyền vào sức mạnh (truyện 13), bạo lực (truyện 8).” (PGSTHBT)
 

GS Lê Mạnh Thát ghi rằng các lời dạy từ Kinh Phật như thế đã in sâu vào lòng dân tộc Việt Nam: “Nó xác định cho Phật giáo một chỗ đứng giữa lòng dân tộc Việt Nam, đặc biệt sau sự biến năm 43 sdl, khi nhà nước Hùng Vương bị quân đội Mã Viện đánh sụp, kéo theo một loạt đổ vỡ dây chuyền trong đời sống kinh tế, xã hội và văn hóa, mà phải mất hàng chục năm mới có thể ổn định lại được. Trong cơn lốc chính trị, kinh tế, văn hóa đó, việc chọn đứng về phía những người nghèo, người bất hạnh, khổ đau bất định đem lại cho Phật giáo một vị thế có được những tiếng nói có quyền uy giữa đại đa số quần chúng. Đây cũng là lý do tại sao Phật giáo trở thành nơi gửi gắm những đạo lý tinh hoa của dân tộc, những truyền thống ngàn đời của người Việt, như ta đã thấy trong Lục độ tập kinh.” (PGSTHBT)
 

Từ đó, người dân Việt đời này sang đời kia vẫn giữ truyền thống cúng dường Tam Bảo và bố thí cho tất cả chúng sinh. Ngay tới miếng ăn cuối cùng cũng sẵn sàng bố thí cho người khác. Như Đức Phật đã dạy trong Kinh Iti 26:
 

Này các Tỷ-kheo, nếu chúng sinh chỉ biết, như Ta biết, quả của sự bố thí và chia sẻ, họ sẽ không ăn mà không bố thí trước, và vết nhơ của sự keo kiệt sẽ không chiếm giữ tâm họ. Họ sẽ không ăn mà không chia sẻ ngay cả miếng ăn cuối cùng, miếng ăn cuối cùng của họ, miễn là có người nhận nó. Chính vì chúng sinh không biết, như Ta đã biết, quả của sự bố thí và chia sẻ, nên chúng sinh ăn mà không bố thí trước, và vết nhơ của sự keo kiệt sẽ chiếm giữ tâm họ.”
 

Là những người con dân tộc Việt, dù đang ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam, chúng ta hãy giữ gìn truyền thống học Phật của tiền nhân. Hãy nhìn tất cả mọi người, tất cả chúng sanh nơi cõi này, đều cùng chung trong một bọc nước của vô ngã, đang bập bềnh trên mặt nước vô thường. Hãy luôn luôn giữ hạnh cúng dường Tam Bảo và bố thí cho tất cả những người đang cần giúp đỡ. Đặc biệt, hãy nhớ rằng bố thí với tâm không mong cầu sẽ đưa người tu lên một cõi trời và sẽ đó sẽ chứng quả Bất lai nơi đó, không trở về cõi khổ này nữa.
 

Đức Phật dạy như thế trong Kinh AN 7.52, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích: “Ở đây, này Sàriputta, có người bố thí không với tâm cầu mong, bố thí không với tâm trói buộc, bố thí không với mong cầu được chất chứa, bố thí không với ý nghĩ: “Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau”... [...]...Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để trang bị tâm. Do vị ấy bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này.”
 

Do vậy, bạn hãy sống với tâm hồn thơ mộng như một hậu sinh của rồng và tiên, hãy thường trực nhìn thấy tất cả chúng sinh và mình như chung trong một chùm bọt nước. Và hãy sẵn sàng bố thí dù là miếng ăn cuối cùng của mình, và hãy bố thí trong mọi trường hợp có thể, chỉ để trang nghiêm tâm của mình. Đó cũng là con đường để chứng thánh quả Bất Lai.

.... o ....
 

Learning Buddhism from the Cradle
 

Written and translated by Nguyên Giác
 

When we say that many Vietnamese people have studied Buddhism since their cradle, we are illustrating the deep connection between Buddhism and the history of the Vietnamese people that spans thousands of years. Numerous teachings found in Buddhist scriptures have become deeply embedded in both the official and legendary histories of Vietnam.
 

Legends, which are fictional fairy tales, tell that the Vietnamese people originated more than four thousand years ago. The beautiful fairy Âu Cơ, who lived in the high mountains, often traveled across the plains to share her medical talents and treat those who were sick or in need. One day, a monster frightened her. The fairy Âu Cơ immediately transformed into a phoenix and flew away. At that moment, Lạc Long Quân, the dragon god from the sea, saw that she was in danger. He appeared, picked up a rock, and threw it to chase away the monster.


 

The fairy Âu Cơ and the dragon god Lạc Long Quân were married and had one hundred children. One day, Lạc Long Quân explained to Âu Cơ that as a fairy and a dragon, it would be challenging for them to live together for the rest of their lives. Consequently, they decided to separate: fifty children accompanied their mother to the mountains, while the other fifty followed their father to the sea. The eldest son remained with Âu Cơ and was crowned king, adopting the title Hùng Vương. He established the capital in Phong Châu and named the country Văn Lang. For more than ten generations, all subsequent kings bore the title Hùng Vương.
 

When our ancestors created the aforementioned fairy tale, they suggested that Vietnamese people should not perceive their identity as that of a fairy or a dragon. Instead, they should consider the truth as non-self. Moreover, the distinction between one person and another is illusory, as all individuals are merely 100 bubbles within a cluster of a mother's eggs. Each person is simply a transient manifestation of impermanence, destined for eventual disappearance.
 

Therefore, in the classical teachings of Vietnam, there are numerous principles that emphasize loving others as you love yourself. The phrase "Love others as you love yourself" refers to seeing others as yourself, understanding that we are all just clusters of five aggregates, empty, without self, and subject to suffering. Seeing this way, compassion will manifest; you will love others as you love yourself.
 

Since then, Vietnamese have encouraged acts of charity. For example, a popular saying from ancient times states: A piece of food when hungry is worth a whole package when full. Similarly, another saying goes, "An intact leaf covers a torn leaf."
 

Throughout numerous eras, the king codified a compassionate lifestyle into laws for enforcement. For instance, King Lê Thánh Tông (1460-1497) enacted laws requiring a village official to set up a tent, provide care, offer rice porridge, and administer medicine to a sick person lying on the street, ensuring they did not suffer. If the patient died, the village official was obligated to report the incident to their superior and arrange for a burial. Disobeying this order would result in the official's dismissal from their position.
 

Vietnam first encountered Buddhism in the second or third century CE. According to Professor Lê Mạnh Thát's research, several Pali scriptures were translated into ancient Vietnamese prior to 220 CE, including the Tạp Thí Dụ Kinh (Miscellaneous Parables Sutra), although the identity of the translator remains unknown. The details of this research are documented in the book "Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam" (History of Vietnamese Buddhism), specifically in the chapter titled Phật Giáo Sau Thời Hai Bà Trưng (Buddhism After the Trưng Sisters' Period).
 

Professor Lê Mạnh Thát discussed the origins of the first Buddhist texts translated from Pali into ancient Vietnamese: “In the beginning, when Buddhism was first introduced to our country, certain stories of Indian Buddhist origin, derived from Sanskrit birth literature or Pali texts, were utilized to elucidate Buddhist teachings. After some time, an anonymous Vietnamese author compiled these stories, including those of local origin, and edited them into the Vietnamese version of the 'Cựu Tạp Thí Dụ Kinh' (Old Miscellaneous Parables Sutra), which later served as the foundation for Khương Tăng Hội's translation into Chinese. Consequently, the author of these stories could only be a Vietnamese 'saint' who lived between the first and second centuries CE, although we have yet to identify their name.”
 

Professor Lê Mạnh Thát observed that the book 'Miscellaneous Parables Sutra' prominently emphasizes the significance of offerings and their benefits. Among the twelve stories that highlight this theme, three focus on offerings made to the Buddha (stories 10, 17, and 28), while two discuss offerings to stupas and statues. The remaining seven stories center on offerings made to the Buddha's disciples and other religious figures.
 

Professor Lê Mạnh Thát's research also noted the following: “The second point is that when discussing offerings, the 'Miscellaneous Parables Sutra' places a special emphasis on the poor and those with limited means, such as the three woodcutters in story 31, or even those without any means at all, like the old woman in story 3. This concern is significant because, according to story 21, it was the vow of the Buddha's foremost disciple, Ma Ha Ca Diếp, who only wished to 'save the poor' and refused to expect offerings from the wealthy. This aspect of the sutra is particularly compelling. It illustrates that during its initial introduction to our country, Buddhism chose to align itself with the poor (as seen in stories 3, 21, 28, 30, and 31), the unfortunate, and the suffering (as depicted in stories 20 and 23), rather than with the stingy rich (as in story 17), those who rely on power and strength (as in story 13), or those who resort to violence (as in story 8).
 

Professor Lê Mạnh Thát observed that the teachings of Buddhist scriptures are deeply embedded in the hearts of the Vietnamese people: “Buddhism established a significant presence among the Vietnamese, particularly following the events of 43 CE, when the Hùng King state was defeated by Mã Viện's army. This defeat triggered a series of disruptions in economic, social, and cultural life that took decades to stabilize. Amidst this political, economic, and cultural turmoil, Buddhism chose to align itself with the poor, the unfortunate, and the suffering, thereby gaining an authoritative voice among the majority. This alignment is also why Buddhism became the custodian of the nation's moral teachings and the millennia-old traditions of the Vietnamese people, as exemplified in the 'Lục độ tập kinh' (The Six Paramitas Sutra).”
 

Since then, Vietnamese people have upheld the tradition of making offerings to the Triple Gem and sharing with all living beings across generations. Even the last bite of food is willingly shared with others. This practice reflects the teachings of the Buddha, as outlined in the Iti 26 Sutta.
 

Mendicants, if sentient beings only knew, as I do, the fruit of giving and sharing, they would not eat without first giving, and the stain of stinginess would not occupy their minds. They would not eat without sharing even their last mouthful, their last morsel, so long as there was someone to receive it. It is because sentient beings do not know, as I do, the fruit of giving and sharing, that they eat without first giving, and the stain of stinginess occupies their minds.” (Translated by Bhikkhu Sujato)
 

As Vietnamese people, whether residing inside or outside of Vietnam, let us preserve the tradition of practicing Buddhism passed down by our ancestors. Recognizing the interconnectedness of all people and living beings in this world, like bubbles in water, is crucial. It is essential to uphold the virtue of making offerings to the Triple Gem and providing for those in need. In particular, remember that giving without expectation will elevate the practitioner to a heavenly realm, where they will attain the fruit of Non-return, never to return to this realm of suffering again.
 

The Buddha taught this in the AN 7.52 Sutta, as translated by Bhikkhu Sujato, and is quoted as follows: “Next, take the case of a someone who gives a gift not as an investment, their mind not tied to it, not expecting to keep it, and not thinking, ‘I’ll enjoy this in my next life’... [...] ...Sāriputta, someone who gives gifts, not for any other reason, but thinking, ‘This is an adornment and requisite for the mind’, when their body breaks up, after death, is reborn among the gods of the Divinity’s host. When that deed, success, glory, and sovereignty is spent they are a non-returner; they do not return to this place.”
 

Therefore, live with a poetic heart, like a descendant of dragons and fairies, always perceiving all living beings and yourself as part of a cluster of bubbles. Be prepared to make donations, even with your last morsel of food, and offer assistance in every possible situation simply to enrich your mind. This is also the path to attaining the state of Non-Returner.

.

Tham Khảo / Reference:

-- Lê Mạnh Thát, Phật Giáo Sau Thời Hai Bà Trưng: https://thuvienhoasen.org/a29018/phat-giao-sau-thoi-hai-ba-trung

-- Kinh Iti 26: https://suttacentral.net/iti26/en/sujato

-- Kinh AN 7.52, HT Minh Châu: https://suttacentral.net/an7.52/vi/minh_chau

AN 7.52 Sutta, trans. by Bhikkhu Sujato: https://suttacentral.net/an7.52/en/sujato

.... o ....



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
James Irvine Foundation (https://www.irvine.org) là một tổ chức phi lợi nhuận từ thiện, cung cấp các khoản tài trợ cho các tổ chức phi lợi ở California. Mục tiêu hoạt động của tổ chức là kiến tạo một California nơi tất cả những người lao động thu nhập thấp đều có khả năng thăng tiến về mặt kinh tế. Việc tài trợ bao gồm Giải Thưởng Lãnh Đạo James Irvine Foundation hàng năm, để vinh danh những lãnh đạo cộng đồng California. Từ việc giải quyết công lý môi trường đến cải thiện sức khỏe bà mẹ, những người lãnh đạo này tạo ra sự thay đổi. Họ đưa ra các giải pháp sáng tạo cho những thách thức khó khăn nhất của tiểu bang; cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách; truyền cảm hứng cho thế hệ lãnh đạo tiếp theo. Mỗi tổ chức được vinh danh sẽ nhận được khoản tài trợ $350,000 để đẩy nhanh những công việc đầy ý nghĩa của mình.
Giờ tiết kiệm ánh sáng ban ngày sẽ bắt đầu vào Chủ Nhật, ngày 9 tháng 3/2025, lúc 2 giờ sáng giờ địa phương tại Hoa Kỳ. Đồng hồ "nhảy lên" một giờ, nghĩa là mặt trời mọc và lặn sẽ xảy ra muộn hơn một giờ.
Vắc-xin (Vaccines) đã thay đổi vận mệnh của loài người. Trong thế kỷ 20, bệnh đậu mùa (smallpox) đã cướp đi sinh mạng của hơn 300 triệu người trên toàn thế giới, còn bệnh bại liệt (polio) khiến nửa triệu người tử vong hoặc bị liệt mỗi năm. Nhưng ngày nay, nhờ những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ vắc-xin, bệnh đậu mùa đã hoàn toàn biến mất khỏi hành tinh, và bệnh bại liệt cũng đã được kiểm soát tại nhiều quốc gia.
Đồng tử đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh lượng ánh sáng đi vào mắt, tương tự như khẩu độ của máy ảnh. Do đó, nó rất quan trọng đối với tầm nhìn và cách chúng ta nhận thức môi trường xung quanh.Từ lâu, các nhà khoa học đã biết rằng kích thước đồng tử bị ảnh hưởng bởi ba yếu tố chính
Chuyến bay thử nghiệm thứ 8 của tàu vũ trụ Starship, công ty Space X lại một lần nữa phát nổ ngay sau khi cất cánh, lúc đã đạt độ cao gần 150 km vào ngày 6 tháng 3.
Có phải tuyệt vời lãng mạn là khi lái xe dưới trận mưa ào ạt để tới một quán ya-ua, ngồi nghe chuyện từ một nhà sư học giả Úc châu? Thầy ký tặng cuốn sách Bát Cơm Hương Tích.
Tổng Giám đốc Điều Hành Ford Jim Farley, tại một hội nghị đầu tư vào tháng 1: "Thành thật mà nói. Về lâu dài, mức thuế quan 25% trên khắp biên giới Mexico và Canada sẽ tạo ra một lỗ hổng trong ngành công nghiệp Hoa Kỳ mà chúng ta chưa từng thấy."
Bài phát biểu dài 1giờ 40 phút của Tổng thống Donald Trump trước Quốc hội đã nêu cao nhiều sáng kiến ​​của ông, từ việc trấn áp nhập cư đến thuế quan và chính sách năng lượng trong sáu tuần bắt đầu nhiệm kỳ của mình, nhưng nhiều bình luận của ông bao gồm thông tin sai lệch và gây hiểu lầm.
Hiệp Hội Phát Huy Công Lý Người Mỹ gốc Á lên án sắc lệnh hành pháp của Tổng Thống Trump, quy định Anh ngữ là ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Hoa Kỳ. Đây là một sự phân biệt đối xử nhằm tấn công vào các cộng đồng nhập cư, trong đó có cộng đồng gốc Việt.
KIEV 131 người đoạt giải Nobel đã cùng nhau lên tiếng phản đối cuộc xâm lược của Nga và sự thụ động của cộng đồng quốc tế, đồng thời yêu cầu tài sản đóng băng của Nga được chuyển giao cho Ukraine. Ferenc Krausz, nhà vật lý đoạt giải Nobel năm 2023, đã cùng với nhà vật lý người Pháp Serge Haroche, người đoạt giải Nobel Vật lý năm 2012 đến Kiev để chuyển giao một bản yêu cầu, trong đó 131 người đoạt giải Nobel trong các lĩnh vực khác nhau yêu cầu các chính phủ phương Tây dùng tài sản bị đóng băng của Nga – ước tính hơn 300 tỷ euro – giúp Ukraine tái thiết đất nước và bồi thường cho các nạn nhân chiến tranh, theo báo DN, Thụy điển.
- Trump sẽ ký lệnh xóa sổ Bộ Giáo Dục Mỹ hôm nay - Bộ Cựu chiến binh cắt 80.000 việc làm - Mất việc 172.017 người trong tháng 2, tăng 246% so với tháng trước và tăng 103,2% so với cùng tháng 2024. Trong đó là 62.242 công chức bị sa thải.
Sáng thứ Tư (5/3), Tối Cao Pháp Viện (TCPV) Hoa Kỳ đã đưa ra phán quyết đầu tiên trong cuộc đối đầu gay gắt giữa Donald Trump, Elon Musk và các cơ quan chính phủ, chủ yếu liên quan đến quyền kiểm soát tài chánh của Quốc hội. Điều đáng nói là chỉ cần thêm một phiếu ủng hộ nữa, Trump và Musk sẽ có toàn quyền để được tự tung tự tác – ít nhất là ở giai đoạn hiện tại. Với tỷ số 5-4, TCPV đã bật đèn xanh cho một phán quyết của tòa sơ thẩm, yêu cầu chính phủ phải chi trả khoảng 2 tỷ MK viện trợ nước ngoài cho các dự án đã hoàn thành. Nói ngắn gọn đơn giản là: chính quyền Trump không thể quỵt nợ.
"Là cha của ba đứa con nhỏ, tôi vô cùng phẫn nộ trước tuyên bố sai sự thật rằng vaccine gây ra chứng tự kỷ. Trẻ em sẽ chết vì lời nói dối này. Tôi không thể đứng đó để nghe thêm một phút nào nữa những lời nói dối của tổng thống Trump"
Sự gắn kết chặt chẽ giữa Elon Musk và chính quyền Donald Trump đã dẫn đến việc người tiêu dùng quay lưng với hãng xe này, theo tin từ Đài truyền hình SVT, Thụy điển. Doanh số Tesla đang lao dốc tại Đức, trong khi thương hiệu này trở thành chủ đề tranh luận sôi nổi trên mạng xã hội. Ở Thụy Điển, một số khách hàng thậm chí từ chối đi cả Taxi nào sử dụng xe Tesla.
(BOSTON, ngày 5 tháng 3, Reuters) – Tòa án liên bang tại Boston đã ra phán quyết ngăn chặn chính quyền Trump thực hiện kế hoạch cắt giảm ngân sách tài trợ cho nghiên cứu khoa học.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.