Hôm nay,  

Báo cáo đặc biệt: Tòa án tối cao ra phán quyết quan trọng, khẳng định quyền bình đẳng cho các Tỳ kheo ni Phật giáo ở Sri Lanka

18/06/202520:18:00(Xem: 2313)

Báo cáo đặc biệt: Tòa án tối cao ra phán quyết quan trọng, khẳng định quyền bình đẳng cho các Tỳ kheo ni Phật giáo ở Sri Lanka

Bản tin của Craig C Lewis, Buddhistdoor Global

Ngày 18/6/2025

 

blank

Ni đoàn: Sakyadhita in Sri Lanka! – Nguồn hình: https://www.sakyadhita-srilanka.org/

 

Trong một phán quyết mang tính bước ngoặt khẳng định sự bình đẳng cho các vị ni tu theo truyền thống Phật giáo Theravada (Trưởng Lão Bộ), Tòa án Tối cao Sri Lanka hôm thứ Hai đã ra phán lệnh rằng Ni sư Welimada Dhammadinna phải được cấp Thẻ căn cước quốc gia công nhận tư cách là một nữ tu sĩ đã thọ giới đầy đủ, thay vì là một sil matha (tiếng Sinhala: "mẹ giới" - precept mother) - một nữ xuất sĩ anagarika, người rời bỏ đời sống gia đình để sống đời tu học, còn mặc áo trắng, chỉ thọ 8 hoặc 10 giới nhưng chưa được thọ giới đầy đủ.
 

Tòa án Tối cao phán quyết rằng một nữ tu Phật giáo đã thọ giới đầy đủ phải được chính thức công nhận là một tỳ kheo ni—lần đầu tiên tòa án tối cao của Sri Lanka phán quyết rằng nhà nước có nghĩa vụ theo hiến pháp phải đối xử với một tỳ kheo ni ngang bằng như với một tỳ kheo.
 

Dòng truyền thừa bhikkhuni của Sri Lanka đã sụp đổ trong cuộc xâm lược của Saivite Chola vào năm 1017 dương lịch. Với việc mất đi quyền thọ giới đầy đủ, phụ nữ muốn thực hiện cam kết thực hành Phật giáo nghiêm túc chỉ có thể trở thành sil mathas. Mặc dù dòng truyền thừa bhikkhuni đã được tái lập ở Sri Lanka hiện nay, nhưng vẫn chưa được các tổ chức tu viện thống trị của Sri Lanka chính thức công nhận. Nhiều vị ni đã thọ giới đầy đủ phải đối mặt với những trở ngại về mặt hành chính, bao gồm cả những khó khăn trong việc xin thẻ căn cước công nhận họ là bhikkhuni, phản ánh sự do dự của các tổ chức trong việc tái hòa nhập hoàn toàn quý ni sư vào hệ thống cấp bậc tu viện Theravada, mặc dù việc thọ giới của quý ni sư là hợp pháp.
 

Dòng ni bộ Theravada được phục hồi từ năm 1996, khi 11 phụ nữ Sri Lanka được thọ giới cụ túc tại Sarnath, Ấn Độ, nhờ vào những nỗ lực của Hiệp hội Sakyadhita International Association of Buddhist Women, tổ chức hàng đầu thế giới cam kết chuyển đổi cuộc sống của phụ nữ trong các xã hội Phật giáo. Ngày nay, có hơn 4.000 tỳ kheo ni ở Sri Lanka.
 

Trong phán quyết mang tính lịch sử vào ngày 16/6/2025, Tòa án tối cao Sri Lanka đã ra phán lệnh cho Tổng ủy viên Sở Đăng ký Cá nhân, trực thuộc Bộ Nội vụ, cấp Thẻ căn cước quốc gia cho Ni sư Welimada Dhammadinna—không phải là với tư cách một sil matha, mà theo danh hiệu chính đáng của một Tỳ kheo ni (bhikkhuni).
 

Chánh án Tối cao Murdu Fernando và Thẩm phán Tối cao Gamini Amarasekera nhận thấy rằng việc bộ này từ chối sử dụng danh hiệu “tỳ kheo ni” mặc dù Tỳ kheo ni Welimada Dhammadinna đã thọ giới đầy đủ theo Giáo đoàn Rangiri Dambulla Chapter là hành vi đối xử bất bình đẳng dựa trên giới tính. (Lời người dịch: Rangiri Dambulu Buddhist Chapter có thể hiểu là: Giáo đoàn Phật giáo Rangiri Dambulu, một tăng thân gắn liền với chùa hang Dambulla.)

“Hiển nhiên là nếu người nộp đơn đầu tiên (tỳ kheo ni) là nam giới, đương đơn sẽ không gặp phải những khó khăn này”, theo Thẩm phán Tối cao Amarasekera nhận xét. “Đương đơn đã bị từ chối công nhận là một tỳ kheo ni, mặc dù đã được Giáo đoàn Phật giáo Rangiri Dambulu mà đương đơn thuộc về, một giáo đoàn được chính phủ công nhận, công nhận như vậy. Do đó, rõ ràng là các quyền của đương đơn theo Điều 12(1) của Hiến pháp đã bị vi phạm bởi các hành động và hành vi của cơ quan trả lời đầu tiên”.
 

Đáp ứng tin này, International Network of Engaged Buddhists (INEB: Mạng lưới Phật tử Dấn thân Quốc tế), vốn từ lâu đã đấu tranh cho bình đẳng giới và quyền tự do tôn giáo trọn vẹn cho các nữ tu sĩ, đã ca ngợi phán quyết này và những tác động sâu sắc của nó đối với tăng đoàn Phật giáo nói chung.

“INEB xin gửi lời chúc mừng chân thành đến Ni bộ tỳ kheo ni Sri Lanka về phán quyết lịch sử của Tòa án Tối cao khẳng định quyền của chư ni đối với thẻ căn cước quốc gia mang danh hiệu tỳ kheo ni hợp pháp. Quyết định mang tính bước ngoặt này không chỉ là sự công nhận cần có từ lâu đối với phẩm giá và địa vị của họ như những tu sĩ đã thọ giới đầy đủ, mà còn là một cột mốc quan trọng đối với tất cả các tỳ kheo ni trên toàn thế giới, những người vẫn tiếp tục tìm kiếm công lý, bình đẳng và hòa nhập vào đời sống tôn giáo”, INEB cho biết trong một tuyên bố công khai ngày 18 tháng 6 và được chia sẻ với trang báo BDG.
 

“Phán quyết can đảm này gửi đi một thông điệp mạnh mẽ: rằng cam kết về mặt tinh thần và sự lãnh đạo đạo đức xứng đáng được công nhận và tôn trọng—bất kể giới tính. Nó khẳng định nguyên tắc cơ bản rằng không ai nên bị loại khỏi vị trí chính đáng của họ trong xã hội hoặc Tăng đoàn dựa trên các tiêu chuẩn lỗi thời hoặc các diễn giải phân biệt đối xử.”
 

Con đường phục hồi việc thọ giới tỳ kheo ni ở Sri Lanka không hề bằng phẳng. Mặc dù có nguồn gốc từ những lời dạy đầu tiên của Đức Phật, các phụ nữ thọ giới đã phải đối mặt với sự phản kháng cố hữu của các định chế và guồng máy quan liêu. Đặc biệt, các giới chức tu viện Phật giáo truyền thống của Sri Lanka đã miễn cưỡng công nhận chính thức việc thọ giới cho nữ giới. Do đó, truyền thống sil matha (nữ tu áo trắng) vẫn tiếp tục đóng vai trò là con đường được chấp nhận nhiều nhất đối với những người phụ nữ tìm kiếm một cuộc sống tâm linh thâm sâu.
 

Phán quyết của tòa án tuần này đại diện cho sự khôi phục sự công nhận ở cấp nhà nước đối với giáo đoàn tỳ kheo ni Sri Lanka và khẳng định tính hợp pháp của việc truyền giới tỳ kheo ni và vị trí chính đáng của các ni sư trong tứ chúng do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni quy định: tỳ kheo, tỳ kheo ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ.
 

Ngoài quyền tự do về mặt tinh thần, thẻ căn cước ở Sri Lanka cũng là một phần thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày, cần thiết cho mọi hoạt động chính thức: bỏ phiếu, mở tài khoản ngân hàng, xin hộ chiếu, thi cử, và v.v.
 

Cô Anchalee Kurutach, Điều phối viên của Peace Project and Women’s Program (Dự án Hòa bình và Chương trình Phụ nữ) của INEB, người đã viết tuyên bố của INEB, đã chia sẻ quan điểm cá nhân của cô về tin này, lưu ý rằng: “Trong ba năm qua, tôi đã có vinh dự được làm việc chặt chẽ với các nhà lãnh đạo tu viện, và tôi đã chứng kiến ​​tận mắt cách các nữ tu sĩ phải liên tục chứng minh bản thân và giá trị của họ—thường là trong khi vẫn giữ thái độ khiêm tốn. Tôi coi họ không chỉ là những người tiên phong, mà còn là những chiến binh tâm linh thực sự.

“Cần phải có lòng can đảm vô cùng để trở thành một tỳ kheo ni. Quý ni sư này làm việc chăm chỉ, thực hành và học tập siêng năng, và tuân theo Giới luật Vinaya với kỷ luật và sự chính trực đặc biệt. Họ đã bước vào cuộc sống tu viện với sự cam kết trọn vẹn—không phải trong vài ngày hay vài tháng, mà là cho hành trình dài. Họ đang đi ngược lại với dòng chính, lựa chọn một con đường đòi hỏi sức mạnh nội tâm và niềm tin sâu sắc.

“Chỉ riêng lòng can đảm và sự cam kết đó thôi cũng đủ khiến tôi cúi đầu trước quý ni sư với sự tôn kính cao nhất.”
 

Phật giáo là quốc giáo của Sri Lanka, nơi giành được độc lập từ sự cai trị của Anh vào năm 1948, với 70,2 phần trăm dân số tự nhận là Phật tử Theravada, theo dữ liệu điều tra dân số năm 2012. Người theo đạo Hindu chiếm 12,6 phần trăm dân số Sri Lanka, trong khi người Hồi giáo chiếm 9,7 phần trăm, người theo đạo Thiên chúa chiếm 7,4 phần trăm và những người khác chiếm 0,05 phần trăm. Là quốc giáo, Phật giáo nhận được các đặc quyền theo hiến pháp của Sri Lanka, mặc dù hiến pháp cũng quy định quyền tự do tôn giáo và quyền bình đẳng cho tất cả công dân.

(Người dịch: Nguyên Giác)
 

SOURCE:

Special Report: Landmark Supreme Court Ruling Affirms Equal Rights for Buddhist Bhikkhunis in Sri Lanka (Buddhistdoor Global)

https://www.buddhistdoor.net/news/special-report-landmark-supreme-court-ruling-affirms-equal-rights-for-buddhist-bhikkhunis-in-sri-lanka/

.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ Alan Lowenthal (CA-47) ngày hôm nay đã đệ trình Nghị Quyết Hạ Viện ghi nhận biến cố lịch sử quan trọng và tưởng niệm 45 năm ngày Sài Gòn thất thủ và sự sập đổ bi thảm của Việt Nam Cộng Hòa. Vào ngày 30 tháng 4, năm 1975, Sài Gòn, thủ đô Việt Nam Cộng Hòa đã bị lực lượng Cộng sản xâm chiếm trong Tháng Tư Đen và Sài Gòn đã bị thất thủ. Mỗi năm biến cố trọng đại này được các cộng đồng người Mỹ gốc Việt khắp Hoa Kỳ tổ chức tưởng niệm.
Nhân dịp lần thứ 45 tưởng niệm biến cố Tháng Tư Đen, Dân Biểu Liên Bang Harley Rouda (Địa Hạt 48) đã gởi thông điệp đến với cộng đồng Người Mỹ gốc Việt tại Quận Cam: Trong thông điệp này, Dân Biểu Rouda cũng nhắc đến những người trong cộng đồng chúng ta mà ông vừa vinh danh: Tướng Lê Minh Đảo, nhạc sĩ Trúc Hồ, Bác Sĩ Phạm Đỗ Thiên Hương.
Tuần này sẽ đánh dấu nhiều mốc ngoặc mới trong đại dịch vi khuẩn corona khi các trường hợp bị lây nhiễm tại Hoa Kỳ đã hơn 1 triệu, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh tái mở cửa và một số nhân viên y tế địa phương bắt đầu thử nghiệm kháng thể cho công chúng, theo bản tin của CNN cho biết hôm Thứ Hai, 27 tháng 4 năm 2020. Tính tới Thứ Hai, Hoa Kỳ đã có 1,008,571 trường hợp bị lây, với 56,521 người thiệt mạng.
3 videos ngắn cho thấy “hiện tượng xuất hiện trong không gian không xác định” đã được công bố bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Các video, đã được phổ biến trước đây bởi một công ty tư nhân, cho thấy cái gì đó trông giống các vật bay không xác định di chuyển nhanh trong khi được thu hình bởi các máy thu hồng ngoại tuyến, theo CNN tường trình cho biết. 2 trong 3 video, các quân nhân có thể nghe được sự phản ứng các vật bay nhanh như thế nào. Một giọng nói cho thấy nó có thể là một chiếc robot.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tối nay 22 Tháng Tư, chính quyền Trump đã ban hành một Sắc lệnh mở rộng những hạn chế về nhập cư trong một nỗ lực rộng lớn để tiếp tục chương trình bài ngoại nhằm đánh lạc hướng người Mỹ về thất bại của chính họ qua các giải pháp thích ứng với đại dịch coronavirus. Sắc lệnh này được xây dựng trên một số chính sách chống người nhập cư do chính quyền đưa ra trong vài năm qua đóng cửa gần như tất cả các con đường hợp pháp để nhập cư.
Bắt đầu từ sau giữa tháng Ba 2020, hầu hết các doanh nghiệp không thiết yếu trên khắp Hoa Kỳ đều đã lần lượt được lệnh phải đóng cửa để ngân chận sự lây lan của Coronavirus, trong đó có hàng chục ngàn tiệm Nail của người gốc Việt. Vì buộc phải đóng cửa một cách bất ngờ và cũng bởi chưa đến ngày trả lương theo định kỳ, nhiều chủ tiệm Nail đã không kịp thanh toán cho nhân viên khoản tiền lương của những ngày đã làm việc từ sau lần lãnh lương trước đó cho đến ngày ngưng làm việc vì Coronavirus. Ngoài ra, vì nghĩ rằng sẽ không bị buộc phải đóng cửa quá lâu, nhiều chủ tiệm Nail dự tính sẽ trả đủ tiền lương ngay khi nhân viên trở lại làm việc. Tuy nhiên, rất ít chủ doanh nghiệp hiểu rằng không thanh toán tiền lương theo đúng quy định cho nhân viên sau khi nghỉ việc, sẽ là nguyên nhân dẫn đến vô số rắc rối về pháp lý.
Những người có khuynh hướng cực đoan trong chính kiến, dù hữu khuynh hay tả khuynh, đều có những đặc điểm giống nhau và rất khác người ôn hoà. Bài viết này tóm lược một nghiên cứu tâm lý học đăng trên Sage Journals tháng Giêng 2019. Hy vọng nó sẽ giúp ta hiểu thêm về hiện tượng tâm lý chính trị cực đoan để tránh bị khích động, đồng thời giúp ta tìm ra cách hoá giải. Xin lưu ý “hữu khuynh”và “tả khuynh” trong bài được dùng theo định nghĩa thông thường và hoàn toàn không hàm ý tốt hay xấu. Trong chính trị học, cộng đồng con người thường được chia làm ba nhóm: cấp tiến (liberal), trung hoà (moderate) và bảo thủ (conservative). Sự phân cách này phần lớn xuất phát một cách tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được nhào nặn thêm bởi giáo dục, truyền thống, truyền thông, xã hội v.v.
nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời vì chưa có một ai đã trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”). Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi. Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không? Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật. Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ bình thường, không ngừng gia tăng thêm lên mãi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse). Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đã đạt được đến mức nầy hay chưa?
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Vào lúc 5:00 giờ chiều Chủ Nhật 26/04/2020, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đã có buổi nói chuyện trên mạng lần thứ hai với nhóm Phật tử Giớ Trẻ Mây Từ, với chủ đề những điều Phật tử nên làm trong mùa đại dịch COVID-19 đang tiếp tục hoành hành.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.