Hôm nay,  

Chụp Này Chụp Nọ

12/6/201900:30:00(View: 2534)
Chup Nay Chup No_39 Que Diêm_Đinh Trường Chinh
Hình: 39 que diêm - Đinh Trường Chinh

Có những tấm ảnh không chỉ làm thay đổi số phận của một con người, mà còn góp phần làm thay đổi cả một giai đoạn lịch sử. Hai tấm ảnh nổi tiếng trong chiến tranh Việt Nam đã là điều đó, tấm tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên Việt cộng Bảy Lốp, và tấm cô bé gái bị cháy vì bom napalm Phan Thị Kim Phúc, chẳng hạn.

Thắng, một anh bạn hiện sống ở Úc kể câu chuyện như sau. Vào năm 1968, Thắng lên sáu, gia đình còn sống trong một trại gia binh ở Đà Nẵng. Một hôm, Thắng thấy người ta đang xúm xít đông đảo ở góc chợ chiều, ngoài người dân ra thì có cả vài người lính Mỹ. Tò mò, cậu cố chen vào xem chuyện gì. Mất một lúc, khi lủi vào được tận vòng trong cùng, đứng kề dưới chân ba người lính Mỹ, Thắng ngước lên thì thấy một xác người nằm co quắp, hai tay bị trói quặp ra sau lưng, tóc tai rũ rượi, máu đọng đen đã khô trên ngực, đàn ruồi bay vo ve. Người ta đang đắp chiếu lại và chờ xe đến mang đi. Thắng quay mặt đi, không dám nhìn lần nữa, không kịp nhận ra là đàn ông hay đàn bà, xác Việt Cộng hay xác người bị Việt Cộng giết. Cảnh tượng quá khủng khiếp. Thắng cố quay ra nhưng vướng phải chân của một người lính Mỹ. Họ đang chụp ảnh. Anh lính vụng về làm rơi tấm ảnh polaroid xuống đất nhằm lúc Thắng giẫm lên làm tấm ảnh dính vào chân. Trong lúc hỗn loạn, Thắng lượm tấm ảnh bỏ vào túi quần. Khi len được ra ngoài, Thắng chạy một mạch về nhà. Mẹ Thắng thấy con chạy chơi về, mặt mày thất thần, áo quần bẩn thỉu, bèn bắt thay ra, tắm rửa. Thắng kịp giấu tấm ảnh vào góc giường. Tối đó, khi mọi người đã ngủ, Thắng moi tấm ảnh ra xem. Nó dính sình đất nhem nhuốc, nhưng không cần xem kỹ, chỉ liếc qua thì Thắng đã thấy lại cảnh tượng ghê rợn lúc ban chiều. Thắng đặt tấm ảnh úp mặt lên bàn. Không dám chạm vào nó. Hôm sau, ba mẹ cậu thấy tấm ảnh, la cho Thắng một trận rồi vất đi.

Tấm ảnh như mang theo vong hồn của người đã khuất, theo ám Thắng mãi suốt đời. Nó là hình ảnh thực chứng của thời thơ ấu trong chiến tranh. Có lẽ người lính Mỹ ấy đã chụp lại ít nhất một tấm khác tương tự ở cùng góc nhìn ấy. Tôi tự hỏi anh ta chụp cảnh tượng ấy để làm gì. Anh ta đã làm gì với nó. Hình ảnh ghê rợn ấy không trừng phạt anh như đã làm với bạn tôi sao.

Lần đầu tiên trong đời tôi được cầm máy ảnh và bấm thử là năm tôi lên bảy. Ba tôi đóng quân ở miền Trung. Ông về phép, mang theo một chiếc máy ảnh nhỏ mà tôi không còn nhớ hiệu gì. Nó là vật thể kỳ diệu nhất mà tôi từng được thấy. Kỳ diệu và thiêng liêng, như thể nó được mang đến từ một thế giới nào khác. Hôm ấy, ông bảo cả nhà thay đồ đẹp rồi ra sân nhà để ông chụp ảnh. Nắng mười giờ sáng đẹp. Mẹ tôi vận áo dài hoàng yến, ngoài khoác thêm chiếc áo bầu voan trắng, bốn anh em tôi vận sơ-mi trắng, quần sọt xanh, đầu đội mũ nỉ rộng vành, kiểu nón của hướng đạo viên. Ba tôi chỉ dẫn cho mọi người đứng làm kiểu để ông bấm mấy tấm, rồi để máy lên chiếc ghế, điều chỉnh chế độ tự chụp trong 10 giây, ông chạy vội đứng vào chung với vợ con. Một lúc sau, thấy ánh mắt thèm thuồng món đồ chơi lạ, ông chỉnh máy, rồi đưa cho tôi, chỉ cách cầm máy ngắm, nín thở để đừng rung, và bấm. Tôi không được xem liền tác phẩm nhiếp ảnh đầu đời của mình vì ba tôi mang phim đi rửa rồi quên bẵng, mấy tháng sau khi ông chìa ra xấp ảnh để mẹ chọn bỏ vào album gia đình, có tấm rõ có tấm không, thì tôi nhận ra được tấm do mình bấm máy dù nó nhòa mờ. Tuy nhiên, tôi nhớ mãi cái cảm giác thú vị kỳ lạ khi cầm máy, trọng lượng nằng nặng của máy, cái bao da có mùi thơm lạ xốc vào mũi, những nút bấm, vòng xoay của ống kính, và sau cùng, khoảng sân nhà hiện ra trong khung ngắm: ba tôi mặc đồ trận, đội mũ sắt, tay bồng một đứa con, tay kia choàng vai mẹ tôi cũng đang bồng một đứa, thằng em kế tôi ngồi xổm bên con chó Ky nằm dưới chân ba tôi, và rồi, tiếng “tách” khi tôi bấm nút. Tấm ảnh có lẽ bị hư, out of focus, nhưng hình ảnh ấy được lưu giữ trong trí nhớ tôi dài lâu. Tôi mơ hồ hiểu rằng mình đang làm một việc vô cùng quan trọng. Tôi đang tạo ra và lưu giữ lại hình ảnh của trần gian. Một khoảnh khắc được tôi cắt lìa ra khỏi dòng chảy của đời sống. Và, kỳ dị thay, tôi thấy mình hiện diện trong khung ảnh, đang lóng cóng, và trịnh trọng, nâng chiếc máy lên ngắm. Bây giờ, sau nhiều đổi dời, gia đình tôi không còn giữ được những tấm ảnh xa xưa ấy.

Khoảng giữa thập niên 80, tôi thèm có cái máy ảnh để làm nghề chụp ảnh dạo kiếm sống như vài người bạn có, nhưng đó là ước mơ quá lớn. Đó là thời mà ai cũng muốn có tấm ảnh màu trước bồn phun nước góc đường Lê Lợi và Nguyễn Huệ, ở trung tâm thành phố, hay ngồi trên bậc thềm đền thờ Vua Hùng trong Thảo Cầm Viên, và người ta phải nhờ đến những ông thợ chụp ảnh dạo bấm cho. Theo sự tiến bộ của khoa học, những phát minh nối nhau ra đời theo nhu cầu của con người, và đồng thời làm cho nhiều thứ trước đó biến mất. Nghề chụp ảnh dạo và máy chụp phim biến mất khi máy ảnh du lịch và máy quay phim digital ra đời, được bán với giá phải chăng. Máy ảnh du lịch biến mất khi smart phone ra đời. Giờ đây, ai cũng có thể sở hữu một điện thoại có công dụng chụp ảnh và quay phim để ghi lại và phát tán mọi hành vi và diễn tiến của cuộc đời có mình hiện diện trong đó. Con người không còn mãi mãi là những kẻ vô danh tính, vô nhân ảnh, vô tăm tích.

Về sau, làm báo, viết lăng nhăng để kiếm sống bằng nhuận bút, tôi chỉ đủ tiền để sắm chiếc máy ảnh loại du lịch, nhỏ gọn có thể bỏ trong túi áo, chụp tự động, dễ thao tác, chất lượng ảnh không quá kém, có thể dùng làm minh họa cho những bài viết của mình. Niềm khao khát chơi ảnh còn đó nhưng tôi không theo đuổi, phần vì không có máy tốt, phần vì lười chưa chịu mày mò tìm hiểu, học hỏi thêm về kỹ thuật, nhưng cái chính là tôi chưa có một ý niệm rõ rệt về việc chụp ảnh. Tôi chưa trả lời được câu hỏi quan trọng nhất: chụp cái gì, và chụp để làm gì?

Họa sĩ tự tạo ra thế giới của mình, chủ động theo cách họ muốn cái thế giới ấy như thế nào; trong khi nhà nhiếp ảnh chỉ có thể phần nào thay đổi cái thế giới ngoại tại có sẵn theo ý của mình, hắn không thể chủ động toàn phần trong việc tạo ra tác phẩm, mà lệ thuộc vào sự may rủi ngẫu nhiên của không gian bên ngoài. Họa sĩ vẽ ra, tạo ra cuộc đời theo ý mình, trong khi nhà nhiếp ảnh ghi lại, giữ lại hình ảnh có sẵn ở ngoài cuộc đời thật bằng chiếc máy tuy có nhiều công năng tối tân, nhưng vô hồn. Người chụp ảnh giỏi là kẻ bằng cảm quan nhạy bén của mình, sẽ quyết định chụp cái gì, ở góc nhìn nào, điều chỉnh máy như thế nào, bấm máy vào lúc nào, rồi can thiệp vào bức ảnh sau khi chụp, bắt nó kể câu chuyện về thế giới, về cuộc đời, bắt chiếc máy ảnh làm việc nhiều hơn khả năng chỉ ghi chép lại của nó. Khả năng của nhà nhiếp ảnh là mang sự linh hoạt, sinh động, của màu sắc đến với thế giới, ngay cả khi chỉ trong hai màu đen và trắng. Thậm chí, hắn tạo ra những tình huống không có thật, hay điều hướng cho người xem truy tìm sự thật từ sự tương phản, từ sắc độ, và từ cái nhìn hư cấu của hắn. Hắn cho người xem vay mượn đôi mắt của hắn. Hắn tiết lộ với họ những bí mật trong đời sống thường nhật mà họ không nhận biết được.

Sau cùng, tôi cũng sắm được chiếc máy ảnh và vài ống kính vừa ý, tạm đủ để thỏa mãn thú vui lâu nay mơ mòng ấp ủ mà chưa thực hiện. Tôi cũng tạm trả lời được câu hỏi chụp cái gì đây. Người ta gọi trò chơi nhiếp ảnh này là nhiếp ảnh đường phố, street photography. Tôi thích gọi việc chụp ảnh của mình là chụp này chụp nọ. Không theo một trường phái hay chủ đích nào rõ rệt, tôi mang theo máy ảnh ra đường, và bấm bất cứ những gì mình thấy thích, phần lớn là con người và những sinh hoạt của họ. Tôi cố gắng không vi phạm vào sự riêng tư của người được/bị chụp, phần lớn là có sự đồng ý và cho phép của họ. Chụp ảnh là cách thế để tôi kể lại những câu chuyện về con người và thế giới mà mình đang sống trong đó. Mỗi tấm ảnh mang một câu chuyện. Ngoài ra, hình ảnh còn giúp tôi lưu giữ những chi tiết và dữ kiện cho việc viết văn. Một số nhân vật trong truyện của tôi là được mô phỏng theo những tấm ảnh mình đã chụp.  

Giải quyết xong phần chụp cái gì rồi thì vẫn chưa xong, còn thêm câu hỏi chụp xong rồi thì làm gì với những tấm ảnh đó? Hẳn nhiên, ảnh là để xem. Nhưng chỉ riêng mình xem thì hơi phí, phải không nào? Vậy, ngoài mình ra thì còn ai nữa sẽ xem chúng? May thay, chúng ta đang sống trong thời đại có Facebook, có Instagram và nhiều phương tiện chia sẻ hình ảnh khác, nhưng tôi chỉ đăng những tấm ảnh mà mình thú vị lên Facebook với ý nghĩ tự trấn an rằng mình chỉ rón rén tước đoạt (và làm phiền, nếu có) của những người xem ảnh chừng năm giây trong cuộc đời dài dằng dặc, và thường là vô vị, của họ, thì đó không phải là điều quá đáng.

Tôi chưa có nhiều dịp đi đây đó, trong tất cả những thành phố mà tôi đã đến và sống qua thì Sài Gòn và New York là hai nơi thân thiết nhất. Tôi yêu thích sự huyên náo và nhịp đời đa dạng của chúng. New York còn thích hợp với thú vui chụp này chụp nọ của tôi hơn. Mỗi tháng tôi đều về thăm nhà, nơi có người tôi yêu sống ở đó. Tôi nghĩ, trên thế giới không có thành phố nào có nhiều người mang máy ảnh ra đường như ở New York. Họ không phải là khách du lịch, và cũng không phải là những nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, mà phần nhiều là người chụp ảnh như một thú vui. Cư dân New York cũng quen với việc được/bị chụp ảnh, và dường như họ ít khi phản ứng gay gắt. Người ta mang theo ra đường đủ loại máy ảnh tùy theo cách chơi mà họ theo đuổi. Có người sử dụng máy chụp phim to đùng có từ đầu thế kỷ trước, có người dùng những chiếc Leica xinh xắn và tối tân trị giá vài ngàn đô. New York đủ an toàn để người ta cầm máy ảnh đi chơi trong những đêm khuya khoắt mà không sợ bị cướp giật. Những ngày rảnh rỗi, chúng tôi chỉ cần đôi giày sneaker êm nhẹ và chai nước lọc là đủ để lang thang từ sáng tới khuya, đói thì ăn fast food, mỏi thì ngồi nghỉ trên ghế đá hay vỉa hè, chỉ vậy thôi là đời vui như hội.

Tôi chưa chụp được tấm ảnh nào khốc liệt như tấm ảnh anh lính Mỹ làm rơi. Xã hội Mỹ tương đối an toàn, ít biến động, mà sự an toàn thường là tẻ nhạt. Đêm về, tôi bỏ thẻ nhớ vào laptop, để cho những tấm ảnh hiện lên bên cạnh nhau, lắng nghe chúng so sánh và kể chuyện. Thế giới chỉ bất ngờ đông cứng lại. Thời gian cũng đông cứng lại. Nhưng những con người trong ảnh không bất động. Thật ra họ chỉ như bị chích một liều thuốc tê cực mạnh khiến phải thảng thốt dừng lại mãi mãi, nhưng đồng thời họ cũng đang cục cựa nhúc nhích, đang thở, đang bước, đang nói, đang hạnh phúc, đang đau khổ, đang cố gắng lao bật ra khỏi khung hình. Và đời sống mở ra những bí mật, từ đó.  

THẬN NHIÊN
Detroit
10/25/2019

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Đây là tựa đề một tác phẩm văn học rất dễ thương của nhà văn Vũ Bằng. Ông bắt đầu viết từ tháng Giêng 1960, tiếp tục viết 1965, và hoàn thành vào khoảng 1970 – 1971. Hơn mười năm cho một quyển sách, có thể là dòng suy tưởng của tác giả bị gián đoạn do công việc mưu sinh, có thể tác giả chưa nắm bắt được sự rung cảm của riêng mình.
Cái tin khoa học gia Alan D chế tạo siêu máy tính với hệ điều hành cực kỳ tân tiến làm chấn động cả thế giới, hệ điều hành mới với trí thông minh nhân tạo giờ đây sẽ giải phóng con người. Con người chẳng cần phải làm gì nữa, bọn robot sẽ thay người làm tất cả mọi việc từ sản xuất trong hãng xưởng, nông trại, việc nhà… thậm chí cả ra trận luôn.
*Alfred D. Sulfridge, bác sỹ Trung Tá Không Lực Mỹ tại phi trường Trà Nóc, Cần Thơ. Hồi năm 1970 anh thường đến hợp tác làm việc với tôi tại bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa, Cần thơ. Bác sĩ Sulfridge là người bạn của tôi về chuyên môn, phẫu thuật, mặc dầu anh ta nhỏ hơn tuổi 2 tuổi.
Ngoài sảnh cả một biển người loi nhoi dáo dác tìm người thân của mình, Dean D mũ lệch, kiếng đen bước đi khệnh khạng ra vẻ lắm, nhiều ánh mắt nhìn theo tỏ vẻ thèm thuồng pha lẫn ngưỡng mộ.
Hùng mơ màng, suy nghĩ. Đã nhiều lần anh chàng tự nhủ, ừ, tại sao lại không, tại sao lại không nghĩ nhỉ. Không có gì quý hơn độc lập tự do, thì tại sao lại không tận hưởng cái quyền độc lập và tự do không giới hạn này, nghĩ. Nghĩ thế, Hùng cứ một mình tiếp tục ung dung suy nghĩ, đố đứa nào báo cáo, chúng mày có giỏi thì kiểm thảo xem.
Trong suốt một thời gian dài, gần như những năm cuối trung học, gia đình tôi không có một kỳ nghỉ hè nào vui vẻ bên nhau. Tất cả đã chấm dứt từ cái mùa nghỉ hè năm lớp chín, khi bố tôi phải lòng cô thư ký của ông. Mà cô thư ký ấy lại chính là cô giáo cũ của tôi, người tôi rất quý mến.
Nhà văn Võ Hồng sinh ngày 2/12/1922 (khai sinh ghi 5/5/1921) tại làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông sớm mồ côi mẹ. Thuở nhở Võ Hồng ng học trường làng, trường phủ Tuy An, trường tỉnh Sông Cầu, rồi trường Collège Quy Nhơn. Năm 1939 khi đang học Đệ Tam, ông cùng bạn bè viết bích báo và ông chọn một trong số những truyện đó gửi cho báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy là tờ báo có nhiều độc giả nhất lúc đó tại Hà Nội.
Bầu trời cuối thu xanh thăm thẳm, cái màu xanh tưởng chừng như bầu trời thông đến tận cùng thế giới. Từng đám mây trắng bồng bềnh, lững lờ trôi, chúng thong dong tự bao đời đời nay giữa trời đất bao la, mặc cho lòng người khúc mắc, mặc cho thế sự điên đảo…
Vô cùng thương tiếc Trung Tá Phi Công Nguyễn Văn Triều
Anh bước vội vào trong toa xe điện. Một chút ăn năn vì anh về muộn. Anh lỡ quên, hôm nay ba mươi Tết! Anh tìm một chỗ ngồi kín đáo và cố thu người sao cho ấm. Anh vụt nhớ, bên nhà giờ này là mồng một Tết. Anh nhớ câu thơ ai viết:“ Đêm xuống bên ni, Ngày lên bên nớ”. Mắt anh đau đáu nhìn ra ngoài trời. Chicago tràn ngập tuyết.
Tuyết! Đấy là cái ám ảnh dai dẳng của tôi trong một thời gian rất dài. Nước tôi không có tuyết, và lẽ dĩ nhiên cũng không có nhiều món đặc trưng khác của Tây, của Tàu, của Châu Phi chẳng hạn, thế nhưng ước mơ của tôi được thấy tuyết tận mắt là tha thiết hơn cả.
Chúng tôi đinh ninh rằng chúng tôi là những người hồi cư sớm nhất, nhưng không phải. Về đến địa hạt Dương Xuân Thượng, chúng tôi biết rằng đã có nhiều gia đình về trước chúng tôi đến cả nửa tháng. Trên con đường núi đưa về chùa, cỏ mọc che cả lối đi. Chú Tâm Mãn đẫn đầu đoàn người hồi cư, có vẻ nóng nảy hơn hơn ai hết.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.