Hôm nay,  

Đợi…

21/02/202000:00:00(Xem: 5229)
Cogai&cabien_tranh Nguyen Trung
Tranh sơn dẫu Nguyễn Trung - Cô Gái & Biển Cả


Bây giờ là mùa xuân, chỉ sau Tết mới tròm trèm mươi ngày, nghĩa là khí dương đang mạnh và mọi thứ đang sinh sôi nảy nở. Nàng nhớ da diết vườn cải hoa vàng nơi góc quê. Cái màu vàng miên man như một dòng ánh sáng dắt con người lùi dần vào một nơi chốn nào đó khuất lấp và sáng dịu, một thứ ánh sáng đã bị bọc kín bởi hoài niệm, xa xôi sương mù. Và đương nhiên phía sau liếp cải vàng sẽ là căn nhà bằng tre, đất sét trát tường và có hai cửa sổ nằm đăng đối, mỗi cửa sổ có một khuôn gió cũng bằng những thanh tre đan vuông góc với nhau. Đó cũng là nơi con mèo vàng của nàng hay đùa giỡn, có nhiều lúc nàng tức giận vì nó nhảy vào liếp hoa cải làm đổ rợp, màu vàng rơi lã chã.

“Em sẽ đợi, cho đến ngày những hạt cải kia được hong khô”. Nàng đã nói như thế khi lời cầu hôn của y thốt lên và y chỉ thấy buồn bởi hình như y mơ hồ nhận ra rằng thứ gì mà nàng quan tâm nhất đều không giống y, nàng mong manh và dễ bị gió mùa thổi lạc. Và cũng hình như chỉ có nàng mới cho y được cái cảm giác chờ đợi của một con người. Y nhớ như in những ngày đầu dậy thì, y bắt đầu mọc lông, và y ngồi trên cái cầu ngang ao cá, nghe tiếng cá đớp lách chách, y nhìn xuống nhúm lông măng và y nghĩ rằng y sẽ chờ đợi cho đến bao giờ đám lông này trở thành rừng rậm, y sẽ được hiểu thế nào là mùi đàn bà. Và tuổi trẻ, cái tuổi mới lớn trở nên rấm rứt, râm ran khó tả. Hình như con người sinh ra để chờ đợi nhiều hơn là đi tới và chạm vào một thứ gì đó hay là nắm bắt lấy nó.

Một cô gái lúc dậy thì, có lẽ cũng chờ đợi cái ngày được gã trai tặng cho một nhắm bông cỏ may hoặc một cái lược hoặc hiện đại hơn, có lẽ các cô bây giờ chờ đợi một đại gia nào đó xuất hiện ngoài ngõ với chiếc Lamborghini mới cóng và cả xóm phải loét mắt thèm thuồng, đại gia đó không có thói quen chơi hoa hồng và cũng không có thói quen tặng hoa cho ai, ông ta quen xếp những đồng bạc trăm đô hoặc năm trăm ngàn thành những pháo đài nhỏ và chơi trò giúp người đẹp ẩn náu. Hình như các cô chân dài đều mong như vậy. 

Nàng thì khác, nàng không chờ đợi giống như các cô và hình như nàng cũng không chờ đợi giống bất kỳ ai. Nàng chờ con mèo vàng trở nên ngoan ngoãn hơn và nó biết thương luống cải vàng giống như nàng, nàng chờ đợi hình ảnh con mèo vàng vờn nhau, nô đùa với lũ bướm vàng trong buổi chiều xuân bảng lảng, nàng chờ đợi một lúc nào đó nàng trưởng thành hơn và nàng cũng chưa hiểu được thế nào là trưởng thành.

“Muốn trưởng thành hơn, em phải có tình yêu” Y nói.

“Nhưng rốt cuộc tình yêu thì có liên quan gì tới trưởng thành?” Nàng hỏi vặn.

“Ờ…!” Y không thể trả lời thêm được. Y không thể nói với nàng là khi yêu, người ta sẽ cảm nhận được mùi thơm da thịt của nhau và cái mùi thơm đó là chất xúc tác khiến cho hệ thống trưởng thành hoạt động. Hay nói khác đi, giả sử như sự trưởng thành là một cỗ máy bắt buộc khi bước vào xã hội thì chính cái mùi thơm, hơi thở thổn thức nhục dục phát ra từ tình yêu sẽ là loại xăng có sức đốt cực mạnh để cỗ máy đó hoạt động. Nhưng đó là quan niệm của y. Vẫn không thiếu người nói với y rằng mùi thân thể, da thịt của người yêu chỉ là một phần nhỏ cảm hứng để người ta bật nổ cái máy trưởng thành, còn chất đốt thực sự của trưởng thành lại là những cái nhà, cái xe và tiền bạc rủng rỉnh, người ta có thể mua sắm bất kỳ thứ gì. Đương nhiên, y chỉ mong người nói ra câu này có cơ hội trưởng thành thêm chút đỉnh dù theo nghĩa nào đó.

*

Hình như nàng chờ đợi cũng đã lâu, những vết nheo mờ trên khóe mắt mỗi khi cười của nàng chỉ cho y thấy điều đó. Và thời gian cũng giúp y gần gũi với nàng tựa như con mèo vàng của nàng, nàng nói rằng nàng không muốn y bước đi xăng xái như gã lực điền, nàng muốn y tập lại bước chân cho vững chãi hơn và dáng đi phải tự tin hơn. Điều này cũng giống như nàng đã chờ đợi một sự dịu dàng ẩn chất lòng yêu thương và trắc ẩn của con mèo vàng mỗi khi nó gặp lũ bướm. Bây giờ không còn vườn cải hay liếp giậu như thuở trước, mọi thứ đã được bê tông hóa và cha mẹ nàng cũng không ngoại lệ. Họ đã phá bỏ đi nếp nhà tranh để xây một căn nhà bằng bê tông với gạch, lợp ngói đỏ au, nơi liếp cải ngày xưa là một vườn hoa hồng và những cội mai già được bứng về từ rừng. Góc sân con mèo hay đùa giỡn với đàn bướm là gara xe của em trai nàng, mọi thứ đã đổi đời. Nhưng nàng vẫn chờ đợi.

“Em vẫn chờ cái ngày ấy”.

“Cái ngày đó là ngày gì?”.

“Em cũng không định hình. Nhưng phải chờ, con mèo của em cũng bắt đầu biết chờ đợi”.

Nghe tới đây thì y phì cười, bởi con mèo già này còn biết làm gì ngoài việc nằm chờ đợi ai đó mang thức ăn đến, nó sẽ uể oải ngồi nhổm tư thế nửa nằm nửa ngồi để liếm láp dĩa thức ăn. Y lấy làm lạ là cả thời trẻ trai của nó cứ quanh quẩn suốt bên nàng để chờ nàng vuốt ve, khi ngủ nó cũng chờ nàng ôm vào giường như vậy thì liệu có lúc nào nó bỗng dưng động dục và chạy trốn nàng để đi tìm một con mèo cái hay không. Nếu không có một cuộc bỏ trốn hay lén lút nào đó để tìm mèo cái thì thật là tội cho nó. Nhưng rồi, y lại nghĩ đến chuyện suốt cả đời nàng chỉ thích vuốt ve con mèo vàng như vậy, liệu có lúc nào nàng trốn nó để gặp một gã trai nào đó hay không, vì nếu không làm vậy thì thật tội nghiệp cho nàng.

“Nhưng phải biết chờ đợi!”

“Chờ đợi cái gì?”

“Ngày còn nhỏ, em nhìn những sợi lông măng trên tay, rồi sau đó lông trên… Em thấy lâng lâng khi nghĩ đến một lúc nào đó, chàng ấy sẽ đến trong huyền nhiệm, vạm vỡ và mở tung cuộc đời em. Những lúc nghĩ như vậy, em chỉ muốn… ngay! Nhưng rồi khi mọi sợi lông đã hoàn thiện, chàng vẫn bặt vô âm tín! Và em lại tiếp tục chờ để một ngày đầu mùa nào đó, khi những bông cải này bắt đầu rực vàng, chàng lại đến, mạnh mẽ, phong trần và lột xác cuộc đời em. Như một con ve sầu. Nhưng chuyện ấy cũng không đến. Bây giờ, em đã kém sắc. Lại đợi một ngày…”

Y chỉ biết im lặng. Bởi lời của nàng như những nhát dao cắt xéo vào tuổi trẻ phung phí của y. Y hoàn toàn đánh mất hy vọng bởi hầu như trong cuộc rong ruổi của đời y, y có thể ngủ với không dưới một ngàn gái điếm. Và y cũng đã biến gần một ngàn gái điếm ấy thành những phiên bản mờ nhòa của nàng. Y đã chờ đợi, mặc dầu y chẳng thể lý giải tại sao y phải chờ đợi nàng, trong khi đó, mọi sự hối thúc về hôn nhân của y đã khiến không ít lần cha y nổi cuồng và giữa y với cha y gần như không còn lành lặn kể từ sau những vụ cãi vã đến nảy lửa. Nhưng y xem như cuộc đời y không có gì khác ngoài những chiếc bong bóng cá tuổi thơ.

Những chiếc bong bóng cá y từng nhìn thấy ở mương nước quanh vườn. Vườn có một con mương nhỏ, nước róc rách, trong veo, nó được trổ từ đám ruộng bên ngoài. Bà của y thả những con cá cờ, còn ông của y thì mua những con cá kim, cá phướng về cho y để thả xuống mương. Mùa đông tới, nếu không có lụt, chúng sẽ sinh sôi nảy nở rất nhanh và chúng có thể tăng gấp ba số lượng khi xuân về. Mùa hè, có những năm hạn hán, đất lòng mương khô nẻ vì thiếu nước. Những con cá biến mất theo lòng đất. Y (lúc ấy là cậu bé) đã khóc thật nhiều và làm một đám tang tiễn chúng về trời bằng những ngọn lửa đốt từ lá khô, và y làm đám giỗ cho lũ cá bằng những viên kẹo nhỏ. Thế nhưng không hiểu sao, khi mùa đông tới, nước bắt đầu ẩm ướt và dâng đầy mương thì lũ cá lại xuất hiện, chúng bơi tung tăng như chưa từng có mùa khô hạn nào.

Y lấy làm lạ, hỏi ông, ông bảo nó chui dưới lòng đất. Y vẫn lấy làm lạ bởi không có nước làm sao chúng thở được. Y hỏi bà, bà bảo rằng mỗi con cá có một cái bong bóng lớn bao bọc lấy nó, và mỗi con người cũng có một chiếc bong bóng lớn bao bọc lấy họ. Vậy nghĩa là sao, y càng phân vân, không riêng gì lúc tấm bé mà mãi cho đến bây giờ, y vẫn phân vân với chiếc bong bóng bao bọc lấy con người. Bà nói rằng, những chiếc bong bóng ấy quyết định số phận con người lớn hay nhỏ, cô đơn lẻ loi hay sầm uất và lả lướt. Nó đong tất cả mọi hình ảnh của cuộc đời, và khi con người di chuyển, cũng đồng nghĩa với hàng triệu con người, hàng triệu hào quang và bóng tối đang di chuyển cùng. Thực sự, y không hiểu cho mấy. Nhưng có vẻ như y lờ mờ nhận ra được chiếc bong bóng của đời y, nó có vẻ phản chiếu sự lẻ loi, cô đơn và một ít bóng tối của số phận ban cho. Cứ như thể, mỗi khi đứng ở ngã tư chờ đèn đỏ, y lại lơ mơ thử nhìn những chiếc bong bóng khác và hình như cho dù nó có phản chiếu nhiều ánh sáng nhường nào thì y vẫn thấy những khoảng tối trống hoác và đâu đó có cả bóng đêm vây bủa. Y nhìn cho đến khi đèn xanh trở lại, còi xe kêu inh ỏi vì sự tắc trách của y thì y mới di chuyển cùng đàn đàn lóp ngóp bong bóng. Y thấy họ, những người đi trên đường cùng với y là những con cá buồn đang di chuyển trong một con mương mùa nước cạn và chẳng biết đến bao giờ, con mương ấy sẽ cạn khô, trơ đáy rồi nứt nẻ. Nhưng những con cá kia sẽ chui vào lòng đất với chiếc bong bóng của nó, còn y và họ sẽ chui về đâu. Y nghĩ như vậy và không nhịn được cười bởi hình ảnh một cặp đôi đang vừa chạy xe máy vừa cố ngoái đầu lại hôn nhau. Thật là điên rồ cho cả y và họ nếu như có tiếng va ầm. Rất may là họ đã kịp dừng!

*

“Con mèo đã biến mất!” Nàng nói trong hoảng loạn.

“Em hãy chờ nó về!”

“Không, em không thể chờ đợi lâu hơn nữa, nó đi đã hơn tuần nay!”

“Đúng rồi, phải đến mười ngày nó mới quay trở lại. Bởi mùa động dục của mèo kéo dài tới mười ngày!”

“Em không nghĩ là vậy, nó quá già, nó động dục chẳng khác nào em sinh con”.

“Em sinh con cũng là chuyện bình thường mà!”

“Anh không hiểu phụ nữ!” Nói xong, nàng thở dài thườn thượt, mặt mày thêm phần ủ rũ.

“Anh xin lỗi, có lẽ…!”

“À, người ấy đã xuất hiện, em quên kể với anh!” Nàng reo lên như một đứa trẻ.

“Lúc nào?”

“Thôi, không cần kể ra thời gian, nói chung là anh ấy đã xuất hiện, anh ấy kể thật nhiều về Vạn Lý Trường Thành, về đất nước Nhật Bản có nhiều hoa anh đào, về những con sư tử đá ở quốc đảo Singapore, ồ hóa ra chúng không đến mức hùng vĩ và ly kỳ như mình thấy đâu! Đơn giản hơn nhiều, và anh ấy cũng từng đi sang Ai Cập, rồi Hoa Kỳ, dường như anh ấy có mặt nhiều nơi. Em nghĩ rằng, chỉ có Chúa mới có thể biết được nhiều nơi hơn anh ấy một chút!”

“Ờ…!” Mi cảm thấy có một ai đó vừa dùng kim để chọc chiếc bong bóng chung quanh mi và nàng. Mi không thể nói gì hơn. Tự dưng, dáng ngồi của nàng khiến mi hơi rờn rợn nhớ đến hai mẹ con người đàn bà ngồi dưới trăng, hát ru và xõa tóc, họ đã tồn tại và mãi trẻ trung qua ba thế hệ, nghĩa là họ cùng tuổi với bà mi. Thế nhưng một trái bom nổ và hai mẹ con họ bị vùi dưới hầm tre, thời chiến, chẳng mấy ai đủ thời gian và dũng cảm để ra đào bụi tre mà tìm xác. Bụi tre trốc ngược trở thành mộ của họ. Mãi đến sau này, cứ mỗi đêm trăng, người mẹ lại mặc bộ áo quần trắng ngồi bồng con và hát ru. Âm ngữ của họ khàn đục, buồn rầu và có pha lẫn chút giọng người từ quá khứ nào đó vọng về. Họ hát bằng thứ ngôn ngữ rất lạ, không thể biết được họ hát bài gì nhưng chắc chắn, đó phải là bài hát ru. Đã nhiều lần mi nhìn thấy và cố lắng nghe tiếng hát nhưng không hiểu được đó là tiếng hát gì. Mi mang máng hiểu ra rằng đó là thứ ngôn ngữ đã bọc kín trong chiếc bong bóng. Và hai mẹ con của họ được bọc trong chiếc bong bóng. Nghĩ vậy, mi rùng mình và thấy buồn, nhất là khi nàng bỗng dưng nói cười hoạt náo, nàng rủ mi cùng uống rượu, cùng xem phim và không ngần ngại rủ mi cùng xem một bộ phim về giới tính khá mạnh. Điều này hoàn toàn khác con người của nàng. Mi thấy một nỗi sợ mơ hồ nào đó về chiếc bong bóng…

*

Sau đêm ấy, dường như giữa y và nàng có một khoảng cách rất xa lạ. Mặc dù mọi thứ đã trở nên gần gũi hơn rất nhiều, y có thể đến với nàng bất kỳ giờ nào và y lấy làm lạ là ở tuổi của nàng, tưởng chừng như mọi thứ thanh xuân đã trôi, nhưng không, nàng như một chén trà khô chưa bao giờ được pha chế. Và mọi hương thơm của chén trà ấy được đánh thức một cách mãnh liệt, đặc quánh. Nhưng, y lại cảm thấy trong cái gần gũi và mãnh liệt ấy, có một thứ mầm ly biệt, khó nói, y có cảm giác chiếc bong bóng bọc cuộc đời nàng trở nên xơ cứng và lạnh lẽo, nó cũng giống như chiếc bong bóng của cuộc đời y trở nên trơ lạnh và thi thoảng, có âm của tuyết rơi.

“Con mèo, nó trở về, và…”

“Em thấy đó, anh nói đâu có sai. Nó sẽ về!”

“Nhưng em đã chôn nó. Nó hình như về mấy ngày rồi, nằm sau bụi chuối, có vài vết máu”.

“Chắc là đi tranh nhan sắc với mấy con còn trẻ, khỏe!”

“Chắc là vậy, tuổi già rồi, dù có động cỡn cỡ nào cũng phải đổ gục thôi!” Nàng nói xong và dường như quên mất mình vừa nói gì, nàng vục đầu vào ngực y và bắt đầu hôn. Mãi cho đến lúc trên người y và nàng không còn mảnh vải, nàng từ từ đưa y vào. Y, thay vì hân hoan hay xúc động, y lại thấy sợ hãi mơ hồ, về một điều gì đó. Ánh sáng nhợt nhạt chiếu qua liếp cửa, một liếp cửa hình những thanh tre đan vào nhau như một tấm phên tre nhưng kỳ thực nó được làm bằng những thanh sắt và sơn màu giống hệt tre khô. Vườn hoa cải không còn nhưng phòng nàng lúc nào cũng ngào ngạt mùi dầu hoa cải cùng với bức tranh lớn vạt hoa cải dán trên tường, một chút ánh sáng đánh nhẹ trên bề mặt bức tranh luôn cho cảm giác đang ngồi bên vườn cải, trong một chiều xuân nào đó.

*

“Anh xin lỗi, anh hỏi không phải! Người ấy là ai?”

Nàng lắc đầu.

“Lẽ nào? Em không thể chia sẻ với anh sao?”

Nàng lại lắc đầu.

“Người ấy đang chu du ở một quốc gia nào đó hay sao?”

Nàng tiếp tục lắc đầu và choàng vội chiếc khăn vào người. Y cảm nhận tiếng khò khè trong lồng ngực nàng. Nàng nói yếu ớt với y rằng nàng sẽ tiếp tục chờ đợi.

“Nhưng em chờ đợi điều gì?”

Nàng lại lắc đầu, lần này, nàng lắc đầu rất mệt nhọc, vẻ mệt nhọc của nàng hiện rõ trên gương mặt nhợt nhạt và tái xanh.

*

Y gọi cấp cứu.

*

Nàng đã có di chúc, mọi thứ nàng có dành cho em của nàng, riêng chiếc điện thoại thông minh thì dành cho y. Hôm làm lễ mở cửa mả cho nàng, y mở tin nhắn Facebook. Có một dãy tin chờ, từ một đứa trẻ hình như chưa đầy mười lăm tuổi. Mà cũng có thể là hình ảo của một ai đó. Tin nhắn kể với nàng về những cuộc rong chơi qua các nước. Y đọc thật kỹ và nhận ra đây là một đứa trẻ mồ côi, đang sống với người bà ở Bắc Kinh. Cha mẹ cậu bé thuộc vào diện giàu nhất nhì xứ Hương Cảng, đã mất trong một vụ tai nạn xe hoặc có thể là vụ thanh toán nào đó. Cậu nói tiếng Việt khá rành vì từng ở Việt Nam nhiều lần, nếu cộng hết thời gian lưu trú xứ này, chắc có khi chiếm mất một phần ba tuổi trên gương mặt.

Y nổi da gà với tin nhắn bằng âm thanh, hình như là tin cuối của cậu bé “Cô ơi, con vẫn chờ đợi cô. Chỗ này buồn lắm, con đã cách ly ngày thứ mười ba. Người ta hình như không còn là loài người. Có vẻ như tay chân con nhích không nổi nữa!” Y cảm thấy có thứ gì đó đè nặng lên lồng ngực của y, bởi Trung Hoa Đại Lục đang mùa dịch phổi, người chết la liệt và có thể, những cuộc trò chuyện của nàng với cậu bé mà nàng cất công chờ đợi mấy mươi năm nay cũng đang nằm trong một chiếc smartphone nào đó, lẻ loi giữa một mớ điện thoại thông minh nằm chất đống, mệt nhoài và la liệt ngoài hành lang nhà hỏa táng. Tự dưng, y trào nước mắt và khóc rấm rứt. Y chưa bao giờ khóc như vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba chục năm trước, Bê đã bắt đầu sự nghiệp thể thao của Bê. Số là, Ba vừa học xong lớp chuyển nghiệp. Thời gian chuẩn bị thi cử, Ba dạy kèm cho một người bạn cùng lớp. Thi đậu, người bạn tạ ơn Ba một cặp vé Musik Konzert. Lúc đó, Bê ở trong bụng Mẹ đã hơn sáu tháng. Mẹ kể, Mẹ đang năm đầu ở đại học. Trời mùa đông, Mẹ đi học, mặc áo khoác dày cui. Bởi vậy, bạn học không ai biết Mẹ sắp sửa có em bé, chỉ ngỡ Mẹ hơi lên cân, zugenommen. Bác bạn của Ba có lẽ không dè vợ của bạn là bà bầu nên mới mời đi Rock Pop Konzert của ca sĩ Jennifer Rush.
Năm đó, 1999, miền Trung Việt Nam nhất là ở Huế đang chịu trận thiên tai bão lụt lịch sử lớn nhât từ trước cho đến thời điểm bấy giò. Trong hội chợ tết, người Việt ở đây San Jose vui Xuân nhưng không quên đồng bào ở quê nhà. Từng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam được phân phối nhiệm vụ cầm những thùng lạc quyên để quyên tiền cứu trợ. Đang lang thang trong hội chợ, hai em bé trong đồng phục Hướng Đạo chận tôi lại. Một trai một gái. Bé gái cao hơn bé trai non nữa cái đầu, chửng chạc nói “Chú ơi, ủng hộ đồng bào bảo lụt đi chú”. Trọn một câu tiếng Việt, tuy phát âm không trọn vẹn, nhưng khá rõ ràng. Tôi nhìn hai em, nhất là bé gái đang thắt cái nơ trên đầu cái nơ mầu đỏ! Tôi bỗng thấy lòng bâng khuâng man mác.
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi.
Vừa đi vừa ngắm lá vàng vừa suy nghĩ chuyện cũ mà đến nhà Sarah hồi nào hổng hay. Sarah mở cửa với nụ cười thật tươi, Lệ thấy ngay phòng khách những giỏ táo đầy ắp, Sarah giải thích: - Hễ cuối hè đầu thu là nhà tớ hái toàn bộ các trái táo ngoài vườn sau, một phần để sên mứt, phần sấy khô, và phần làm bánh táo nướng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tới tôi bài “Mùa Hạ Đom Đóm và Dế Mèng” khi tôi muốn cùng các ông bạn đồng lứa tuổi trở về những ngày xưa thật xưa. Chị Tú hình như cũng cùng tâm trạng với các bạn không còn trẻ của tôi: “Tháng sáu, tôi đến chơi với anh tôi ở Virginia. Cái nóng rịn mồ hôi trên thái dương, và khó ngủ lắm, buổi tối, tôi với anh ra ngồi ở bực thềm, nói chuyện. Tôi bỗng thấy thỉnh thoảng có những chớp nho nhỏ như lân tinh sáng lóe lên rồi lại biến mất trong bụi cây thấp trước mặt, hỏi anh tôi, cái gì thế? “Đom Đóm” Tôi lặng người đi một lúc như nghe thấy ai nhắc tên một người bạn thân cũ, nó làm tôi xúc động. Xúc động một cách rất mơ hồ, chẳng có nguyên nhân gì cả, chỉ là cái tên của một loại côn trùng bé tí được gọi lên. Cái tên nhắc nhở một quê hương xa lắc, một dĩ vãng nằm dưới tấm chăn phủ dầy lớp bụi thời gian. Trong bóng tối, tôi ngắm những cái chấm lửa nhỏ nhoi, lóe lên rồi tắt ngóm với trái tim nôn nao trong ngực. Có đến cả hơn bốn mươi năm tôi không được nhìn thấy những đố
Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà. Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, mầu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cúp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi. Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai
Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.
Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.
Nếu quý vị độc giả nào đã đọc câu chuyện tình cảm éo le, oan trái tràn đầy nước mắt: "Thằng Cu Tí và Thằng Cu Tèo" và nếu quy vị nào chưa đọc, thì xin hãy mở Google.com sẽ thấy đế tài này thuật lại 2 vị cao niên về thăm VN để hưởng tuần lễ trăng thanh gió mát quê nhà, sau nhiều năm phải rời bỏ quê hương để sống tha hương ngàn trùng xa cách nơi đất khách quê người đi tìm sự tự do. Nay mới có dịp được quay trở về thăm quê cha đất tổ, đồng thời còn được thưởng thức những món ăn đặc sản quê hương
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực 'xương máu' của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
Lúc xưa thật xưa, người Việt Nam ta có tục lệ bầy cỗ Trung Thu vào dịp tết trăng tròn tháng 8 âm lịch. Cỗ này thường để dành cho trẻ con, vừa vui Trung Thu, vừa ăn bánh vừa ngắm trăng tròn, sáng tỏ. Thường cỗ này gồm phần lớn là bánh Trung Thu, bánh dẻo bánh nướng và rất nhiều thứ trái cây, trái cây chánh là bưởi, bưởi hồng đào ngọt và tròn xoay như một vầng trăng. Ăn bưởi xong, có thể sâu hột trái bưởi, phơi khô đi sem sém, và có thể đốt hạt bưởi từng sâu như đốt nến, đèn cầy.
Tường Vi sinh ra lớn lên từ miền “quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hè thời thiếu cơm”. Trước 1975, ba Vi có chức vụ lớn trong quân đội, làm việc tại Đà Nẵng cuối tuần mới ra Huế. Gia đình Vi ở bên kia bờ Sông Hương nằm trên đường Nguyễn Công Trứ, khu nhà vườn rộng mênh mông có bến sông sau, trước ngõ trồng hàng loạt hoa Tường Vi. Mẹ rất thích loại hoa này, nên đặt tên Vi giống loài hoa. Vi có bốn chị em gồm hai em trai (Vinh, Lộc) và gái út (Tường Như), Vi là chị đầu đàng. Năm 13 tuổi vì thi rớt nên phải học trường tư thục Bồ Đề đến năm lớp tám, ba Vi từ Đà Nẵng dẫn theo người thanh niên về Huế giới thiệu tên Sơn, ra Huế học đại học luật khoa, sẽ dạy kèm chị em, làm gia sư ăn ở trong nhà luôn. Vì tò mò hỏi mạ


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.