Hôm nay,  

Đợi…

21/02/202000:00:00(Xem: 5211)
Cogai&cabien_tranh Nguyen Trung
Tranh sơn dẫu Nguyễn Trung - Cô Gái & Biển Cả


Bây giờ là mùa xuân, chỉ sau Tết mới tròm trèm mươi ngày, nghĩa là khí dương đang mạnh và mọi thứ đang sinh sôi nảy nở. Nàng nhớ da diết vườn cải hoa vàng nơi góc quê. Cái màu vàng miên man như một dòng ánh sáng dắt con người lùi dần vào một nơi chốn nào đó khuất lấp và sáng dịu, một thứ ánh sáng đã bị bọc kín bởi hoài niệm, xa xôi sương mù. Và đương nhiên phía sau liếp cải vàng sẽ là căn nhà bằng tre, đất sét trát tường và có hai cửa sổ nằm đăng đối, mỗi cửa sổ có một khuôn gió cũng bằng những thanh tre đan vuông góc với nhau. Đó cũng là nơi con mèo vàng của nàng hay đùa giỡn, có nhiều lúc nàng tức giận vì nó nhảy vào liếp hoa cải làm đổ rợp, màu vàng rơi lã chã.

“Em sẽ đợi, cho đến ngày những hạt cải kia được hong khô”. Nàng đã nói như thế khi lời cầu hôn của y thốt lên và y chỉ thấy buồn bởi hình như y mơ hồ nhận ra rằng thứ gì mà nàng quan tâm nhất đều không giống y, nàng mong manh và dễ bị gió mùa thổi lạc. Và cũng hình như chỉ có nàng mới cho y được cái cảm giác chờ đợi của một con người. Y nhớ như in những ngày đầu dậy thì, y bắt đầu mọc lông, và y ngồi trên cái cầu ngang ao cá, nghe tiếng cá đớp lách chách, y nhìn xuống nhúm lông măng và y nghĩ rằng y sẽ chờ đợi cho đến bao giờ đám lông này trở thành rừng rậm, y sẽ được hiểu thế nào là mùi đàn bà. Và tuổi trẻ, cái tuổi mới lớn trở nên rấm rứt, râm ran khó tả. Hình như con người sinh ra để chờ đợi nhiều hơn là đi tới và chạm vào một thứ gì đó hay là nắm bắt lấy nó.

Một cô gái lúc dậy thì, có lẽ cũng chờ đợi cái ngày được gã trai tặng cho một nhắm bông cỏ may hoặc một cái lược hoặc hiện đại hơn, có lẽ các cô bây giờ chờ đợi một đại gia nào đó xuất hiện ngoài ngõ với chiếc Lamborghini mới cóng và cả xóm phải loét mắt thèm thuồng, đại gia đó không có thói quen chơi hoa hồng và cũng không có thói quen tặng hoa cho ai, ông ta quen xếp những đồng bạc trăm đô hoặc năm trăm ngàn thành những pháo đài nhỏ và chơi trò giúp người đẹp ẩn náu. Hình như các cô chân dài đều mong như vậy. 

Nàng thì khác, nàng không chờ đợi giống như các cô và hình như nàng cũng không chờ đợi giống bất kỳ ai. Nàng chờ con mèo vàng trở nên ngoan ngoãn hơn và nó biết thương luống cải vàng giống như nàng, nàng chờ đợi hình ảnh con mèo vàng vờn nhau, nô đùa với lũ bướm vàng trong buổi chiều xuân bảng lảng, nàng chờ đợi một lúc nào đó nàng trưởng thành hơn và nàng cũng chưa hiểu được thế nào là trưởng thành.

“Muốn trưởng thành hơn, em phải có tình yêu” Y nói.

“Nhưng rốt cuộc tình yêu thì có liên quan gì tới trưởng thành?” Nàng hỏi vặn.

“Ờ…!” Y không thể trả lời thêm được. Y không thể nói với nàng là khi yêu, người ta sẽ cảm nhận được mùi thơm da thịt của nhau và cái mùi thơm đó là chất xúc tác khiến cho hệ thống trưởng thành hoạt động. Hay nói khác đi, giả sử như sự trưởng thành là một cỗ máy bắt buộc khi bước vào xã hội thì chính cái mùi thơm, hơi thở thổn thức nhục dục phát ra từ tình yêu sẽ là loại xăng có sức đốt cực mạnh để cỗ máy đó hoạt động. Nhưng đó là quan niệm của y. Vẫn không thiếu người nói với y rằng mùi thân thể, da thịt của người yêu chỉ là một phần nhỏ cảm hứng để người ta bật nổ cái máy trưởng thành, còn chất đốt thực sự của trưởng thành lại là những cái nhà, cái xe và tiền bạc rủng rỉnh, người ta có thể mua sắm bất kỳ thứ gì. Đương nhiên, y chỉ mong người nói ra câu này có cơ hội trưởng thành thêm chút đỉnh dù theo nghĩa nào đó.

*

Hình như nàng chờ đợi cũng đã lâu, những vết nheo mờ trên khóe mắt mỗi khi cười của nàng chỉ cho y thấy điều đó. Và thời gian cũng giúp y gần gũi với nàng tựa như con mèo vàng của nàng, nàng nói rằng nàng không muốn y bước đi xăng xái như gã lực điền, nàng muốn y tập lại bước chân cho vững chãi hơn và dáng đi phải tự tin hơn. Điều này cũng giống như nàng đã chờ đợi một sự dịu dàng ẩn chất lòng yêu thương và trắc ẩn của con mèo vàng mỗi khi nó gặp lũ bướm. Bây giờ không còn vườn cải hay liếp giậu như thuở trước, mọi thứ đã được bê tông hóa và cha mẹ nàng cũng không ngoại lệ. Họ đã phá bỏ đi nếp nhà tranh để xây một căn nhà bằng bê tông với gạch, lợp ngói đỏ au, nơi liếp cải ngày xưa là một vườn hoa hồng và những cội mai già được bứng về từ rừng. Góc sân con mèo hay đùa giỡn với đàn bướm là gara xe của em trai nàng, mọi thứ đã đổi đời. Nhưng nàng vẫn chờ đợi.

“Em vẫn chờ cái ngày ấy”.

“Cái ngày đó là ngày gì?”.

“Em cũng không định hình. Nhưng phải chờ, con mèo của em cũng bắt đầu biết chờ đợi”.

Nghe tới đây thì y phì cười, bởi con mèo già này còn biết làm gì ngoài việc nằm chờ đợi ai đó mang thức ăn đến, nó sẽ uể oải ngồi nhổm tư thế nửa nằm nửa ngồi để liếm láp dĩa thức ăn. Y lấy làm lạ là cả thời trẻ trai của nó cứ quanh quẩn suốt bên nàng để chờ nàng vuốt ve, khi ngủ nó cũng chờ nàng ôm vào giường như vậy thì liệu có lúc nào nó bỗng dưng động dục và chạy trốn nàng để đi tìm một con mèo cái hay không. Nếu không có một cuộc bỏ trốn hay lén lút nào đó để tìm mèo cái thì thật là tội cho nó. Nhưng rồi, y lại nghĩ đến chuyện suốt cả đời nàng chỉ thích vuốt ve con mèo vàng như vậy, liệu có lúc nào nàng trốn nó để gặp một gã trai nào đó hay không, vì nếu không làm vậy thì thật tội nghiệp cho nàng.

“Nhưng phải biết chờ đợi!”

“Chờ đợi cái gì?”

“Ngày còn nhỏ, em nhìn những sợi lông măng trên tay, rồi sau đó lông trên… Em thấy lâng lâng khi nghĩ đến một lúc nào đó, chàng ấy sẽ đến trong huyền nhiệm, vạm vỡ và mở tung cuộc đời em. Những lúc nghĩ như vậy, em chỉ muốn… ngay! Nhưng rồi khi mọi sợi lông đã hoàn thiện, chàng vẫn bặt vô âm tín! Và em lại tiếp tục chờ để một ngày đầu mùa nào đó, khi những bông cải này bắt đầu rực vàng, chàng lại đến, mạnh mẽ, phong trần và lột xác cuộc đời em. Như một con ve sầu. Nhưng chuyện ấy cũng không đến. Bây giờ, em đã kém sắc. Lại đợi một ngày…”

Y chỉ biết im lặng. Bởi lời của nàng như những nhát dao cắt xéo vào tuổi trẻ phung phí của y. Y hoàn toàn đánh mất hy vọng bởi hầu như trong cuộc rong ruổi của đời y, y có thể ngủ với không dưới một ngàn gái điếm. Và y cũng đã biến gần một ngàn gái điếm ấy thành những phiên bản mờ nhòa của nàng. Y đã chờ đợi, mặc dầu y chẳng thể lý giải tại sao y phải chờ đợi nàng, trong khi đó, mọi sự hối thúc về hôn nhân của y đã khiến không ít lần cha y nổi cuồng và giữa y với cha y gần như không còn lành lặn kể từ sau những vụ cãi vã đến nảy lửa. Nhưng y xem như cuộc đời y không có gì khác ngoài những chiếc bong bóng cá tuổi thơ.

Những chiếc bong bóng cá y từng nhìn thấy ở mương nước quanh vườn. Vườn có một con mương nhỏ, nước róc rách, trong veo, nó được trổ từ đám ruộng bên ngoài. Bà của y thả những con cá cờ, còn ông của y thì mua những con cá kim, cá phướng về cho y để thả xuống mương. Mùa đông tới, nếu không có lụt, chúng sẽ sinh sôi nảy nở rất nhanh và chúng có thể tăng gấp ba số lượng khi xuân về. Mùa hè, có những năm hạn hán, đất lòng mương khô nẻ vì thiếu nước. Những con cá biến mất theo lòng đất. Y (lúc ấy là cậu bé) đã khóc thật nhiều và làm một đám tang tiễn chúng về trời bằng những ngọn lửa đốt từ lá khô, và y làm đám giỗ cho lũ cá bằng những viên kẹo nhỏ. Thế nhưng không hiểu sao, khi mùa đông tới, nước bắt đầu ẩm ướt và dâng đầy mương thì lũ cá lại xuất hiện, chúng bơi tung tăng như chưa từng có mùa khô hạn nào.

Y lấy làm lạ, hỏi ông, ông bảo nó chui dưới lòng đất. Y vẫn lấy làm lạ bởi không có nước làm sao chúng thở được. Y hỏi bà, bà bảo rằng mỗi con cá có một cái bong bóng lớn bao bọc lấy nó, và mỗi con người cũng có một chiếc bong bóng lớn bao bọc lấy họ. Vậy nghĩa là sao, y càng phân vân, không riêng gì lúc tấm bé mà mãi cho đến bây giờ, y vẫn phân vân với chiếc bong bóng bao bọc lấy con người. Bà nói rằng, những chiếc bong bóng ấy quyết định số phận con người lớn hay nhỏ, cô đơn lẻ loi hay sầm uất và lả lướt. Nó đong tất cả mọi hình ảnh của cuộc đời, và khi con người di chuyển, cũng đồng nghĩa với hàng triệu con người, hàng triệu hào quang và bóng tối đang di chuyển cùng. Thực sự, y không hiểu cho mấy. Nhưng có vẻ như y lờ mờ nhận ra được chiếc bong bóng của đời y, nó có vẻ phản chiếu sự lẻ loi, cô đơn và một ít bóng tối của số phận ban cho. Cứ như thể, mỗi khi đứng ở ngã tư chờ đèn đỏ, y lại lơ mơ thử nhìn những chiếc bong bóng khác và hình như cho dù nó có phản chiếu nhiều ánh sáng nhường nào thì y vẫn thấy những khoảng tối trống hoác và đâu đó có cả bóng đêm vây bủa. Y nhìn cho đến khi đèn xanh trở lại, còi xe kêu inh ỏi vì sự tắc trách của y thì y mới di chuyển cùng đàn đàn lóp ngóp bong bóng. Y thấy họ, những người đi trên đường cùng với y là những con cá buồn đang di chuyển trong một con mương mùa nước cạn và chẳng biết đến bao giờ, con mương ấy sẽ cạn khô, trơ đáy rồi nứt nẻ. Nhưng những con cá kia sẽ chui vào lòng đất với chiếc bong bóng của nó, còn y và họ sẽ chui về đâu. Y nghĩ như vậy và không nhịn được cười bởi hình ảnh một cặp đôi đang vừa chạy xe máy vừa cố ngoái đầu lại hôn nhau. Thật là điên rồ cho cả y và họ nếu như có tiếng va ầm. Rất may là họ đã kịp dừng!

*

“Con mèo đã biến mất!” Nàng nói trong hoảng loạn.

“Em hãy chờ nó về!”

“Không, em không thể chờ đợi lâu hơn nữa, nó đi đã hơn tuần nay!”

“Đúng rồi, phải đến mười ngày nó mới quay trở lại. Bởi mùa động dục của mèo kéo dài tới mười ngày!”

“Em không nghĩ là vậy, nó quá già, nó động dục chẳng khác nào em sinh con”.

“Em sinh con cũng là chuyện bình thường mà!”

“Anh không hiểu phụ nữ!” Nói xong, nàng thở dài thườn thượt, mặt mày thêm phần ủ rũ.

“Anh xin lỗi, có lẽ…!”

“À, người ấy đã xuất hiện, em quên kể với anh!” Nàng reo lên như một đứa trẻ.

“Lúc nào?”

“Thôi, không cần kể ra thời gian, nói chung là anh ấy đã xuất hiện, anh ấy kể thật nhiều về Vạn Lý Trường Thành, về đất nước Nhật Bản có nhiều hoa anh đào, về những con sư tử đá ở quốc đảo Singapore, ồ hóa ra chúng không đến mức hùng vĩ và ly kỳ như mình thấy đâu! Đơn giản hơn nhiều, và anh ấy cũng từng đi sang Ai Cập, rồi Hoa Kỳ, dường như anh ấy có mặt nhiều nơi. Em nghĩ rằng, chỉ có Chúa mới có thể biết được nhiều nơi hơn anh ấy một chút!”

“Ờ…!” Mi cảm thấy có một ai đó vừa dùng kim để chọc chiếc bong bóng chung quanh mi và nàng. Mi không thể nói gì hơn. Tự dưng, dáng ngồi của nàng khiến mi hơi rờn rợn nhớ đến hai mẹ con người đàn bà ngồi dưới trăng, hát ru và xõa tóc, họ đã tồn tại và mãi trẻ trung qua ba thế hệ, nghĩa là họ cùng tuổi với bà mi. Thế nhưng một trái bom nổ và hai mẹ con họ bị vùi dưới hầm tre, thời chiến, chẳng mấy ai đủ thời gian và dũng cảm để ra đào bụi tre mà tìm xác. Bụi tre trốc ngược trở thành mộ của họ. Mãi đến sau này, cứ mỗi đêm trăng, người mẹ lại mặc bộ áo quần trắng ngồi bồng con và hát ru. Âm ngữ của họ khàn đục, buồn rầu và có pha lẫn chút giọng người từ quá khứ nào đó vọng về. Họ hát bằng thứ ngôn ngữ rất lạ, không thể biết được họ hát bài gì nhưng chắc chắn, đó phải là bài hát ru. Đã nhiều lần mi nhìn thấy và cố lắng nghe tiếng hát nhưng không hiểu được đó là tiếng hát gì. Mi mang máng hiểu ra rằng đó là thứ ngôn ngữ đã bọc kín trong chiếc bong bóng. Và hai mẹ con của họ được bọc trong chiếc bong bóng. Nghĩ vậy, mi rùng mình và thấy buồn, nhất là khi nàng bỗng dưng nói cười hoạt náo, nàng rủ mi cùng uống rượu, cùng xem phim và không ngần ngại rủ mi cùng xem một bộ phim về giới tính khá mạnh. Điều này hoàn toàn khác con người của nàng. Mi thấy một nỗi sợ mơ hồ nào đó về chiếc bong bóng…

*

Sau đêm ấy, dường như giữa y và nàng có một khoảng cách rất xa lạ. Mặc dù mọi thứ đã trở nên gần gũi hơn rất nhiều, y có thể đến với nàng bất kỳ giờ nào và y lấy làm lạ là ở tuổi của nàng, tưởng chừng như mọi thứ thanh xuân đã trôi, nhưng không, nàng như một chén trà khô chưa bao giờ được pha chế. Và mọi hương thơm của chén trà ấy được đánh thức một cách mãnh liệt, đặc quánh. Nhưng, y lại cảm thấy trong cái gần gũi và mãnh liệt ấy, có một thứ mầm ly biệt, khó nói, y có cảm giác chiếc bong bóng bọc cuộc đời nàng trở nên xơ cứng và lạnh lẽo, nó cũng giống như chiếc bong bóng của cuộc đời y trở nên trơ lạnh và thi thoảng, có âm của tuyết rơi.

“Con mèo, nó trở về, và…”

“Em thấy đó, anh nói đâu có sai. Nó sẽ về!”

“Nhưng em đã chôn nó. Nó hình như về mấy ngày rồi, nằm sau bụi chuối, có vài vết máu”.

“Chắc là đi tranh nhan sắc với mấy con còn trẻ, khỏe!”

“Chắc là vậy, tuổi già rồi, dù có động cỡn cỡ nào cũng phải đổ gục thôi!” Nàng nói xong và dường như quên mất mình vừa nói gì, nàng vục đầu vào ngực y và bắt đầu hôn. Mãi cho đến lúc trên người y và nàng không còn mảnh vải, nàng từ từ đưa y vào. Y, thay vì hân hoan hay xúc động, y lại thấy sợ hãi mơ hồ, về một điều gì đó. Ánh sáng nhợt nhạt chiếu qua liếp cửa, một liếp cửa hình những thanh tre đan vào nhau như một tấm phên tre nhưng kỳ thực nó được làm bằng những thanh sắt và sơn màu giống hệt tre khô. Vườn hoa cải không còn nhưng phòng nàng lúc nào cũng ngào ngạt mùi dầu hoa cải cùng với bức tranh lớn vạt hoa cải dán trên tường, một chút ánh sáng đánh nhẹ trên bề mặt bức tranh luôn cho cảm giác đang ngồi bên vườn cải, trong một chiều xuân nào đó.

*

“Anh xin lỗi, anh hỏi không phải! Người ấy là ai?”

Nàng lắc đầu.

“Lẽ nào? Em không thể chia sẻ với anh sao?”

Nàng lại lắc đầu.

“Người ấy đang chu du ở một quốc gia nào đó hay sao?”

Nàng tiếp tục lắc đầu và choàng vội chiếc khăn vào người. Y cảm nhận tiếng khò khè trong lồng ngực nàng. Nàng nói yếu ớt với y rằng nàng sẽ tiếp tục chờ đợi.

“Nhưng em chờ đợi điều gì?”

Nàng lại lắc đầu, lần này, nàng lắc đầu rất mệt nhọc, vẻ mệt nhọc của nàng hiện rõ trên gương mặt nhợt nhạt và tái xanh.

*

Y gọi cấp cứu.

*

Nàng đã có di chúc, mọi thứ nàng có dành cho em của nàng, riêng chiếc điện thoại thông minh thì dành cho y. Hôm làm lễ mở cửa mả cho nàng, y mở tin nhắn Facebook. Có một dãy tin chờ, từ một đứa trẻ hình như chưa đầy mười lăm tuổi. Mà cũng có thể là hình ảo của một ai đó. Tin nhắn kể với nàng về những cuộc rong chơi qua các nước. Y đọc thật kỹ và nhận ra đây là một đứa trẻ mồ côi, đang sống với người bà ở Bắc Kinh. Cha mẹ cậu bé thuộc vào diện giàu nhất nhì xứ Hương Cảng, đã mất trong một vụ tai nạn xe hoặc có thể là vụ thanh toán nào đó. Cậu nói tiếng Việt khá rành vì từng ở Việt Nam nhiều lần, nếu cộng hết thời gian lưu trú xứ này, chắc có khi chiếm mất một phần ba tuổi trên gương mặt.

Y nổi da gà với tin nhắn bằng âm thanh, hình như là tin cuối của cậu bé “Cô ơi, con vẫn chờ đợi cô. Chỗ này buồn lắm, con đã cách ly ngày thứ mười ba. Người ta hình như không còn là loài người. Có vẻ như tay chân con nhích không nổi nữa!” Y cảm thấy có thứ gì đó đè nặng lên lồng ngực của y, bởi Trung Hoa Đại Lục đang mùa dịch phổi, người chết la liệt và có thể, những cuộc trò chuyện của nàng với cậu bé mà nàng cất công chờ đợi mấy mươi năm nay cũng đang nằm trong một chiếc smartphone nào đó, lẻ loi giữa một mớ điện thoại thông minh nằm chất đống, mệt nhoài và la liệt ngoài hành lang nhà hỏa táng. Tự dưng, y trào nước mắt và khóc rấm rứt. Y chưa bao giờ khóc như vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Võ Hồng sinh ngày 2/12/1922 (khai sinh ghi 5/5/1921) tại làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông sớm mồ côi mẹ. Thuở nhở Võ Hồng ng học trường làng, trường phủ Tuy An, trường tỉnh Sông Cầu, rồi trường Collège Quy Nhơn. Năm 1939 khi đang học Đệ Tam, ông cùng bạn bè viết bích báo và ông chọn một trong số những truyện đó gửi cho báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy là tờ báo có nhiều độc giả nhất lúc đó tại Hà Nội.
Bầu trời cuối thu xanh thăm thẳm, cái màu xanh tưởng chừng như bầu trời thông đến tận cùng thế giới. Từng đám mây trắng bồng bềnh, lững lờ trôi, chúng thong dong tự bao đời đời nay giữa trời đất bao la, mặc cho lòng người khúc mắc, mặc cho thế sự điên đảo…
Vô cùng thương tiếc Trung Tá Phi Công Nguyễn Văn Triều
Anh bước vội vào trong toa xe điện. Một chút ăn năn vì anh về muộn. Anh lỡ quên, hôm nay ba mươi Tết! Anh tìm một chỗ ngồi kín đáo và cố thu người sao cho ấm. Anh vụt nhớ, bên nhà giờ này là mồng một Tết. Anh nhớ câu thơ ai viết:“ Đêm xuống bên ni, Ngày lên bên nớ”. Mắt anh đau đáu nhìn ra ngoài trời. Chicago tràn ngập tuyết.
Tuyết! Đấy là cái ám ảnh dai dẳng của tôi trong một thời gian rất dài. Nước tôi không có tuyết, và lẽ dĩ nhiên cũng không có nhiều món đặc trưng khác của Tây, của Tàu, của Châu Phi chẳng hạn, thế nhưng ước mơ của tôi được thấy tuyết tận mắt là tha thiết hơn cả.
Chúng tôi đinh ninh rằng chúng tôi là những người hồi cư sớm nhất, nhưng không phải. Về đến địa hạt Dương Xuân Thượng, chúng tôi biết rằng đã có nhiều gia đình về trước chúng tôi đến cả nửa tháng. Trên con đường núi đưa về chùa, cỏ mọc che cả lối đi. Chú Tâm Mãn đẫn đầu đoàn người hồi cư, có vẻ nóng nảy hơn hơn ai hết.
Nếu một ngày có hai mươi bốn giờ thì trong cơ thể em cũng nhốt đủ hai mươi bốn cái xương sườn. Một ngày kia, có thể gọi là giờ thứ hai mươi lăm, em gặp phải tai nạn làm gãy mất một cái xương sườn. Vào bệnh viện, chụp quang tuyến X và người ta ra tay giải phẫu, thò tay vào chỗ hóc hiểm để bắt tạm cho em một con vít bằng kim loại, hy vọng đôi ba tháng sau em thôi ca cẩm hát hò bản nhạc “chuyện một chiếc cầu đã gãy”.
Thằng bạn kể, khi nó vào thăm Má nó đang ở nursing home, má hỏi: "Mày vừa từ địa ngục về thăm tao đó hả?" Nó vừa dứt tiếng thì trời nổi gió gào, và tối om, và tôi với tên bạn lạc nhau.
Chiều nay, một buổi chiều cuối năm, tôi bắc ghế ra ngồi ngoài hiên, và tuy đây là một ngõ hẻm khi ngẩng lên tôi vẫn thấy được một vài vì sao lấp lánh. - “Những vì sao cuối năm!” – tôi nghĩ vậy. Đồng thời tôi nhận thấy có sự hiện diện của chòm sao thất tinh quen thuộc.
Đang đọc bản tin trên Yahoo News về việc Hoa Kỳ gửi quân tăng cường cho chiến trường Trung Đông, đến đoạn: “…At Fort Bragg, some 3,500 soldiers in the Army’s 82nd Airborne Division were ordered to the Middle East in one of the largest rapid deployments in decades…” bà Phượng thở dài, nhìn chăm chăm vào tấm ảnh của đoàn quân đang di chuyển đến phi cơ quân sự để bị đưa sang Trung Đông.
Có lẽ trong mỗi người Việt chúng ta, ký ức thời thơ ấu thường là những bức tranh sống động nhiều màu sắc, nhất là trong các ngày Tết. Nhắc đến thủa bé, nỗi nhớ trong tôi bỗng trở nên dịu dàng. Hình ảnh ngày nào tuy không rõ nét, nhưng tôi biết ấy là những kỷ niệm đẹp.
Tôi đến thăm anh vào một buổi chiều cuối năm, trong lúc anh ngồi đối diên với tác phẩm phù điêu“Măt Trời Tự Do”-một công trình anh hoàn thành một năm sau khi anh và gia đình đến Mỹ theo diên H.O. Sau khi mời tôi uống với anh một chén trà ấm, anh kể cho tôi nghe “môt góc đời” của anh: - Tôi là lính trận.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.