Hôm nay,  

Dòng Đời

20/04/202009:40:00(Xem: 4846)

Kính Anh Chị Lê Thanh

Tôi nhận được thư anh chị cách đây mươi ngày. Tôi định viết thư trả lời anh chị hay liền, và cám ơn anh chị đã nhiệt tình đỡ đầu hai quyển sách đầu tay của tôi mà tôi tự xuất bản. Nhưng không hiểu tại sao tôi mãi chần chờ. Đêm nay, tự dưng thức giấc, đọc lại thư anh viết, lòng cảm thấy bồn chồn. Lời thư anh mộc mạc, ngắn gọn, chứa chan tình cảm và nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ của anh, của người tuổi đã ngoài 70. Anh đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử của đất nước.

      Tuổi thiếu niên, trước năm 45, anh sống dưới thời lệ thuộc Pháp. Sau ngày Toàn Quốc Kháng Chiến anh ở trong Vùng Độc lập, Liên khu 5, thuộc chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ngày Hòa bình, sau hòa ước Genève 1954, tòan thể các tỉnh của Liên khu 5: Nam, Ngải, Bình, Phú, thuộc bên này vĩ tuyến 17 anh sống dưới chế độ Viêt Nam Cộng hòa…Rồi đến 30/4/75 hay sau đó, cũng như hàng trăm ngàn người khác, anh chạy ào ra Biển Đông. Sống thì thành người tị nạn; chết thì coi đời mình như hạt cát gửi vào lòng đại dương. Nhờ ơn trên, anh qua được bên kia bờ. Anh sống ở Mỹ suốt 30 năm qua. Thư anh viết cho tôi, không hiểu vô tình hay cố ý anh đề vào ngày 30/4/05, đúng 30 năm tỵ nạn:


Los Angeles 4/30/05    


Kính anh chị Thể,

Tôi là Lê Thanh và vợ là Trân, cám ơn anh rất nhiều về việc anh gửi cho tôi hai quyển sách do anh viết.

    Sau khi đọc tôi thấy có nhiều điều để chiêm nghiệm và suy nghĩ về cuộc đời riêng của mình…

    Sự thật cũng thật là khó nói về những suy tư về cuộc đời của mình!...

Tôi gửi anh tấm check để góp phần in ấn tốn kém


Cám ơn Anh chị nhiều

Lê Thanh 


   Sư thật thì tôi cũng như anh. Tôi suy nghĩ rất nhiều khi ngồi lại trước computer viết thư cho anh, một người bạn xa cách gần 40 năm không gặp nhau. Biết anh ra làm sao? Và tôi viết làm sao với anh bây giờ?

     Nhưng khi đọc thư anh tôi thấy có gì khó ở, bức rức trong anh. Anh có gì muốn nói, nhưng anh còn ngại. Trong thời đại nửa mờ nửa tỏ của lịch sử, của đất nước như hôm nay cũng như trong quá khứ dài đăng đẳng. Biết đâu là chân? Biết đâu là giả? Chúng ta đã sống qua những thời đại của đất nước. Cuộc đời của chúng ta gắng liền với những dấu mốc của lịch sử… 

     Năm 1946, sau lời kêu gọi Tòan Quốc Kháng Chiến, cha anh của chúng ta lên dường, với tầm vong vót nhọn. Mái nhà cuả chúng ta, của 25 triệu đồng bào Việt Nam lúc ấy, thiếu vắng bóng dáng người cha, người anh. Chúng ta không thể nào quên được những cuộc bố ráp của quân đội thực dân Pháp, những năm tháng “tiêu thổ kháng chiến-vừơn không nhà trống”. Những hố tránh bom trong lớp học ngay dưới chân ta, trong suốt gần 60 năm qua vẫn há miệng nhìn chúng ta. Những ám ảnh của thời chiến tranh dài đăng đẳng. Chúng ta đã chán nãn và ngay cả vỡ mộng với những khẩu hiệu rổn rảng những điều xác tín to lớn: “Thiên Đường Ở Ngày Mai - Độc Lập Tự Do- Bình Đẳng Giữa Con Người Với Con Người- Giữa Các Dân Tộc Anh Em”.  Chúng ta sợ phải hô to những khẩu hiệu đả đảo…đả đảo..và đả đảo…Đả đảo Bảo Đại…Đả đảo Việt Minh…đả đảo Việt cộng, đả đảo Việt gian…Đả đảo bọn tay sai, đả đảo bọn bán nứơc. Đả đảo thực dân Tây…Đả đảo đế quốc Mỹ… Chúng ta đả đảo quá nhiều rồi, chỉ thấy toàn đổ nát. Chúng ta thật sự sợ phải hô khẩu hiệu “đả đảo” vô cùng. Cái khẩu hiệu đó đã xé nát tổ quốc chúng ta ra muôn mảnh, đã dựng lên những lô cốt, những chiến hào, những chiến tuyến, gây thêm hận thù.

     Và bỗng nhiên, đến 30/4/75 không hiểu từ đâu trong hàng ngũ anh em chúng ta, kẻ trở thành Ngụy, người trở thành Cách mạng. Cách mạng và Ngụy, khác nhau như trắng với đen, kỵ nhau như nước với lửa. Cha là Cách mạng, Con là Ngụy. Anh là Cách mạng, Em là Ngụy. Chồng là Cách mạng vợ là Ngụy. Trước 75, bạn bè thân thiết với nhau. Sau 75, đứa thành Cách mạng, đứa thành Ngụy. Anh là quản giáo của em. Cha là quản giáo của con. Bắc kỳ trở thành quản giáo Nam kỳ. Luân thường đảo ngược, thiên hình vạn trạng…Nền tảng truyền thống gia đình và xã hội hòan toàn sụp đổ. Hàng triệu người vượt biên tìm đất sống. Hàng trăm ngàn người vô sản Việt nam chạy trốn chủ nghĩa Cộng sản. Cả một sự trớ trêu của lịch sử, mâu thuẩn của thời đại. Rồi, có người hốt hoảng bảo:“Mất nước rồi”- Có kẻ thì bảo “không”,Tổ quốc vẫn còn đó như mặt trời ngày ngày vẫy gọi ta…  

   “Sư thật cũng thật là khó nói về những suy tư về cưộc đời của mình”, như anh đã viết.  Và cụ Tiên Điền cũng từng nói:“ biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?”. Nhưng dù sao đi nữa, anh vẫn còn có những suy nghĩ, những rây ray rức về đời người và đất nước. Tôi hy vọng chúng ta có thể chia sẻ với nhau. Cho dù tổ quốc không còn chúng ta, chúng ta vẫn còn nguyên tổ quốc, để cho mình…Là người Bình định, anh còn nhớ Hát bội không anh?  Dòng Sông Côn vẫn chảy giữa lòng anh? Làm sao anh chối bỏ được! Có những điều mà chúng ta không thể tài nào xua đuổi đi được. Tôi làm sao quên được Hát Bài Chòi và dòng Sông Dinh Phanrang, cũng như anh vẫn nhớ Hát bội và dòng Sông Côn vẫn chảy giữa lòng anh đấy. Làng Vĩnh Thạnh, đất Tuồng của Bình Định! Những cảm xúc dâng tràn, khi “Hội Đã Lên Đèn” và những nỗi niềm của con người ‘dậy’ theo “Tiếng Trống Chầu Hát bội ”! Quê hương lúc nào cũng hiện hữu trong chúng ta, mặc dầu nó mộc mạc, nghèo khó. Thương quê hương như thương hạt gạo một nắng hai sương đã nuôi nấng ta nên người. Không hiểu tại sao khi tôi viết đến những dòng này, tôi lại nhớ đến bài thơ “Tình Quê Hương” của Phan Lạc Tuyên. Ông ta viết bài thơ này khi ông ta là Sĩ quan Tâm Lý Chiến, theo đoàn quân Viêt Nam Cộng Hòa vào tiếp thu Bình định 1954: 

                                          Anh về qua xóm nhỏ

                                          Em chờ dưới bóng dừa

                                          Nắng chiều lên mái tóc

                                          Tình quê hương đơn sơ


                                          Quê em nghèo cát trắng

                                          Tóc em lúa vừa xanh

                                          Anh là người lính chiến

                                          Áo bạc màu đấu tranh ….

                                            

Rất tiếc tôi không nhớ hết bài thơ này, nhưng tôi nhớ lại thuở ấy, trên tờ Văn nghệ của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa có kể lại nhiều giai thoại trong những ngày đầu Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa-QĐVNCH- vào tiếp thu các các tỉnh Nam, Ngải, Binh, Phú, thuộc Liên Khu 5. Khi đoàn xe gồm cả Thiết vận xa của QĐVNCH tiến vào vùng tiếp thu, thì có hàng trăm đồng bào cầm gậy gộc chạy nhào tới đập các thiết vận xa của QĐVNCH trước sự ngạc nhiên đến độ kinh hải của anh em binh sĩ Việt nam Cộng hòa. Sau đó anh em binh sĩ mới hay rằng đồng bào bị Việt Minh tuyên truyền: xe tăng của QĐVNCH làm bằng tòan đồ giả: bằng đất sét, bằng giấy, bằng gỗ…Nhưng có điều lý thú, trong nhóm đồng bào nhào ra tấn công chống lại thiết vận xa QĐVNCH bằng gậy gộc đó, có những nhà trí thức đứng tuổi hay còn trẻ cũng nhào vào tấn công thiết vận xa, cũng hô to khẩu hiệu chống Tây, chống Mỹ, đả đảo bọn Việt gian, bọn tay sai v..v…Nhưng khi nhào đến gần chiến xa, họ ném gậy gộc, họ chụp tay người lính Việt Nam Cộng Hòa họ thản thốt: “Ông ơi ông! Ông cứu tôi! Ông kéo tôi lên xe. Ông giải phóng tôi ra khỏi vùng nầy ngay. Nếu không thì Cộng sản giết tôi!”. Nhiều người trong nhóm trí thức đó sau này là những thầy giáo dạy chúng tôi tại các trường trung học ở Nhatrang. Có Giáo sư Hà Huy, năm 1955, dạy tôi về môn sử. Nhưng sau đó, ông ta đựơc điệu vào Sàigòn làm cố vấn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thầy có người con gái rất đẹp, học cùng lớp với tôi, tại Nhatrang. Chính cô ấy kể lại cho chúng tôi nghe chuyện đồng bào ta tấn công thiết vận xa của QĐVNCH bằng gậy gộc. Thật sự tôi không hiểu lúc đó anh đang làm gi? Và anh ở đâu? Có điều chắc chắn lúc đó anh và các anh em của anh còn kẹt ở Qui nhơn chưa thoát vô Nam được. Tôi hy vọng anh không có mặt trong nhóm đồng bào cầm gậy gộc tấn công thiết vận xa của Quân đội Cộng Hòa. Nếu có cũng chẳng sao. Bị tuyên truyền, bị nhồi sọ, những việc làm của đồng bào ta lúc đó, cũng là “điều tất yếu của lịch sử”!

   Những năm 50, đọc bài thơ “Tình Quê Hương” của nhà thơ Phan Lạc Tuyên ai cũng phải công nhận đó là bài thơ của những tình cảm chân thật, sống động, nói lên tình yêu quê hương của một 

chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Cảm mến sâu sắc bài thơ ấy, nhạc sĩ Đan Thọ đã phổ nhạc biến bài thơ thành một ca khúc trường tồn với lịch sử đấu tranh của đất nước. Và tất cả mọi người yêu nước cứ nghĩ nhà thơ Phan Lạc Tuyên là một sĩ quan Tâm lý chiến của QĐVNCH có tinh thần quốc gia yêu nước. Họ đâu có ngờ, sau 75, nhà thơ Phan lạc Tuyên hiện nguyên hình là một người Cộng sản được gài trong hàng ngũ Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa…Sau 75, chắc chắn, các độc giả đã từng mến mộ ông, khi biết được điều này, họ nhìn ông dưới cặp mắt khác, ít ra người ta không còn tin những gì ông đã viết dù cho chân thật với lòng ông, người ta không còn kính trọng lắng nghe những gì ông nói trong tương lai. Vấn đề đặt ra ở đây không phải nhà thơ Phan Lạc Tuyên là Cộng sản hay Quốc gia. Vấn đề đặt ra ở đây là con người-Con người với toàn vẹn lương tri và nhân cách: Nhân, Trí, Tín…

     Kinh nghiệm quá khứ dạy ta bài học hoài nghi. Lòng tin vào người khác, vào chế độ, vào nhân quần xã hội đã bị cầy nát bởi bởi bom đạn chiến tranh. Lương tri con người đã bị những guồng máy chính trị nghiền nát, biến chất. Con người phản lại con người, con người phản lại gia đình, con người phản lại chính bản thân mình…Chúng ta đúng trước một bối cảnh thực tế vô cùng thê lương của lịch sử. Nguyên thủy xã hội là sản phẩm của trí tuệ con người và sau đó con người là sản phẩm của xã hội. Con người đã mất rồi chăng giá trị tự thân của nó: Nhân, Trí, Tín…Chúng ta là những chứng nhân của lịch sử và cũng là nạn nhân của lịch sử. Chúng ta tự hào là người Việt Nam. Chúng ta tự hào về lịch sử đấu tranh của dân tộc ta mặc dầu tinh thần và thể xác chúng ta tràn đầy thương tích của chiến tranh, của quân xâm lăng, của chuyên chính, của kềm kẹp, của lạc hậu, của ngộ nhận, của nghèo đói, dối trá. Trong suốt hậu bán thế kỷ 20 cả nước ta đã chiến đấu cho Độc lập, và Thống nhất tổ quốc. Chúng ta cần có một lãnh đạo mạnh, cũng như tổ quốc luôn luôn ở trong trình trạng chiến tranh, chúng ta tạm chấp nhận hy sinh phần nào Tự do, Dân chủ. Trong gần 60 năm qua bao thế hệ đà mang chiến bào nối tiếp nhau lên đường khai thiên phá thạch, làm sạch ba trăm sáu chục ngàn kí lô mét vuông lãnh thổ của tố quốc để sẵn sàng cho thế hệ hôm nay thực hiện công cuộc hiện đại hóa! Hơn 60 năm qua đủ rồi! Bây giờ là lúc “ta trở về lấy lại vàng ta”ta nhất quyết lấy lại hoàn toàn Dân chủ và Tự do để cởi trói cho thế hệ trẻ có dịp vương lên cùng nhân loại.  Hôm nay tôi viết thư cho anh tôi có cảm tưởng cùng anh ôn lại lịch sử. Chúng ta cảm xúc, đau đớn qua từng dòng chữ chúng ta viết. Chúng ta viết trên cơ sở máu xương của chúng ta, của anh em và của dân tộc.  

     Anh Lê Thanh, theo tuổi bào mẫu, năm nay tôi cắn đúng 70! Tôi về hưu cách đây gần một năm. Ngày ngày tôi vẫn ngồi lại computer, tìm tòi học hỏi. Tôi tích lũy, tôi viết chưa hề mệt mỏi. Tôi viết để tự chứng tỏ là tôi hiện hữu với tất cả khả năng tri giác, tư tưởng. Tôi đang tiến lên cùng anh em trong nhịp sống tuần hoàn của mổi ngày. Tôi viết với tất cả trách nhiệm với lịch sử. Cám ơn Bill Gates đã cho tôi cơ hội bắt kịp với đời. Nhờ ‘internet’ mà tôi tìm lại được bạn bè có người gần 50 năm xa cách, như anh và nhiều anh em khác. Hôm nay găp lại anh em mà cứ ngỡ gặp nhau ở một cõi đời nào. Tự dưng mình cảm thấy đời cho ta nhiều ân huệ và cảm thấy mình vẫn còn chia sẻ nhiều trách nhiệm với đời. Thế giới vẫn còn đấy. Đời vẫn còn nguyên đấy. Chúng ta vẫn còn nguyên tổ quốc, ngày ngày vẫy gọi ta, dù cho tổ quốc không còn chúng ta.  Phải không anh?


Người bạn rất xưa của anh…                                          


Đào Như

Oak park. Illinois USA

31/05/05

[email protected]



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.
Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi.
*SONG THAO Tôi chừ chỉ chơi thể thao trên ghế sa-lông, ngồi coi người ta chơi. Thứ tôi coi người ta chơi là hockey, tennis và đôi khi bóng tròn. Mình không còn khả năng thì coi người ta chạy nhảy cũng là một cách chơi. Cách chơi biết mình biết ta. Các ông bạn tôi cũng chơi như tôi. Có điều mỗi người chơi theo ý thích riêng của mình. Ông Hoàng Xuân Sơn, ông Luân Hoán cũng na ná như tôi. Nhưng ông Luân Hoán hơi ngả về bóng tròn. Ông Hồ Đình Nghiêm máu mê hơn. Ông sa đà vào bóng tròn. Thời gian vừa qua, ông coi giò coi cẳng các nữ nhân tranh giải bóng tròn thế giới FIFA một cách mê mệt. Ngày ngày ông bá cáo bà con trên Facebook tường tận về từng cặp chân vàng mà trắng, cô nào đá hay, cô nào chụp banh giỏi, ông rành như có họ hàng thân thiết.
Bạn có thể xem bài này như truyện ngắn. Có thể gọi là nhiều truyện ngắn trong một truyện ngắn, hay là ghép từ nhiều mẩu truyện. Bạn cũng có thể đọc như tùy bút, hay bản tin, hay là vân vân... nghĩa là bất cứ những gì có chữ, có thể đọc lên, có thể nghe được như âm thanh. Đó là những gì tự nhiên hiện lên trong trí nhớ của tôi, những gì tôi bất chợt nghe bên tai khi ngồi bên sông, ven biển, góc rừng, hay khi nửa đêm nhìn ra hàng hiên.
Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết.
Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.
Càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rảnh rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Lộc đã chết! Tích ngỡ ngàng khi nghe tin đó. Chàng không tin vào tai mình. Làm sao Lộc có thể chết được? Mình mới gặp anh ấy có tuần trước thôi mà! Trông anh còn khỏe mạnh, tự tin, tràn đầy sức sống. Vậy mà bây giờ anh đã không còn nữa. Cái chết của anh có cái gì đó không thật. Và có lẽ đó là lần đầu tiên Tích đứng trước nhận thức trực tiếp và thâm sâu về tính chất phi lý của một sự kiện quá bình thường trên đất nước chiến tranh này.
Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School”. Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy. Cũng có lúc tôi lại nh ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.