Hôm nay,  

19/12/202011:25:00(Xem: 4362)


 Đi làm về, giày chưa kịp tháo, túi ăn vứt ngoài sân, y khệ nệ bê thùng sách vào nhà rồi vội vàng mở bung ra. Những quyển sách xếp ngay ngắn trong thùng, mùi giấy mới thơm thơm, y lấy một quyển nâng niu tựa như người ta nâng hoa. Đoạn y hít hít mùi giấy và hôn lên bià sách. Y lật ngược lật xuôi, lật xem lướt qua bên trong rồi ôm lấy quyển sách như thể một báu vật của trần gian.   Đây chẳng phải là lần đầu y in sách, nhưng cái cảm giác hồi hộp, háo hức vẫn như thuở ban đầu.

Y còn đang sung sướng lâng lâng thì nghe tiếng vợ càm ràm:

- Vậy là chuẩn bị thêm tiền để gởi sách đi, sách vở chữ nghĩa vô tích sự, chỉ tổ tốn tiền, tốn thời gian mà chả được gì! Thi sĩ, văn sĩ là cái giống gì  hổng biết? người ta làm bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ tiền ròng bạc chảy. Bạn bè đồng trang lứa có đứa vào hàng tướng sĩ, nghị sĩ gia thế lớn, quyền lực mạnh, vợ con sung sướng nở mặt nở mày. Ông thì lẹt đẹt hậu đậu với cái mớ chữ nghĩa văn chương ấm ớ, thà rằng làm quân sĩ còn có lương lậu, làm tu sĩ được cúng dường, thậm chí làm liệt sĩ cũng còn có tiền tử tuất.

Đằng này ông làm thi sĩ, thấy mà phát rầu! 

 Cơn hưng phấn của y tự nhiên tụt xuống, mặc dù từ lâu y không tranh cãi với đàn bà, nhất là với vợ. Chuyện nhà cửa tiền nong y để mặc cho vợ làm gì thì làm, tiền lương vợ quản lý, y chỉ mỗi đi cày, cày về rồi rị mọ viết. Nhiều lần vợ bảo dẹp ba cái chuyện văn chương chữ nghĩa đi, nhưng y chẳng thể nghe theo:

 - Em bảo gì cũng được, riêng việc này thì tôi không thể chìu em được, viết lách chẳng phải là công việc, càng không phải để kiếm tiền. Nó là sự đam mê, nó là cái nghiệp, đã là nghiệp thì muốn hay không muốn cũng không được. Con chim bay được là nhờ đôi cánh, con cá lội được là nhờ vây, anh sống được là nhờ chữ nghĩa, nếu bỏ chữ nghĩa đi thì đời này vô vị lắm! Em muốn làm gì cũng được nhưng đừng can thiệp cái thú vui này của anh! 

 Vợ y lầu bầu:

 - Bọn gái lầu xanh bán thân cho khách mua vui còn có tiền, mấy ông thi sĩ vắt sức vắt hồn ra viết làm vui cho thiên hạ, chẳng những chẳng có xu nào mà còn phải bỏ tiền túi in sách, gởi tặng thiên hạ. Đời sao có thú vui lạ lùng, đem cái vui đến cho thiên hạ mà mình laị hao tài tốn của? trong muôn người may ra có vài người kiếm được chút cháo từ những giải thưởng nọ kia.

Y bảo vợ:

 - Người ta viết không phải mong đợi giải thưởng, cái được của những kẻ viết, người ngoại đạo không thể hiểu được đâu! Tỷ như đàn bà mang thai, cái mệt nhọc khổ sở ấy đàn ông không sao cảm nhận nổi. Rồi khi sanh con ra, tình thương của người mẹ dành cho hài nhi đó lớn như thế nào bọn đàn ông cũng vô phương thấu hiểu! 

 Vợ quày quả bỏ đi xuống bếp lo bữa cơm chiều, y vẫn ngồi bên thùng sách mới, mân mê, ve vuốt những quyển sách. Đoạn y lật một trang sách mà không có chủ ý lựa chọn rồi đọc:”… Chữ nghĩa muôn đời vẫn ảo diệu lắm, nó có sức hút đầy ma lực, dính vào khó mà bỏ được. Có kẻ vì chữ nghĩa mà danh nổi như cồn, cũng có kẻ vì chữ nghĩa mà vướng họa. Người đẻ ra chữ nghĩa, chữ nghĩa vận vào người, đừng lấy làm chơi! Mà rõ ràng chữ nghĩa là một cuộc chơi, cuộc chơi nhọc nhằn nhưng nhiều hứng thú. Cuộc chơi này có kẻ thanh cao nhưng cũng có không ít kẻ làm ô uế chữ nghĩa, xấu cả người chơi. Những kẻ nhân cuộc chơi chữ nghĩa để xu phụ quyền thế, uốn gối khom lưng trước thế lực chính trị, viết lời xu nịnh để kiếm rượu thịt, hoặc giả đổi trắng thay đen, ngậm máu phun người, đánh phá kẻ sĩ để kiếm lộc từ chốn quan trường, đem thân dựa quan quyền hòng được chiếu cố…” y đọc say sưa mấy trang liền, còn đang sung sướng với những con chữ trên trang giấy, tâm tư như hoà vào những dòng chữ ấy thì giật mình nghe tiếng vợ.

 - Đi tắm rửa thay đồ để ăn cơm, đọc sách không làm no bụng được đâu! 

 Lần này thì y không phân bua  gì cả, gấp trang sách laị và lặng lẽ đi vào nhà tắm.

 Nửa đêm y mơ màng, những quyển sách lung ling chấp chới như muôn ngàn cánh bướm lớn và đầy màu sác. Những quyển sách lung linh vây quanh y, ánh sáng diệu kỳ từ những trang sách tỏa ra làm cho gương mặt y rạng rỡ. Y với tay toan chạm vào những quyển sách ấy, ngón tay vừa chạm vào thì lập tức luồng ánh sáng truyền thẳng vào người y, cả thân y sáng như điện, từng tế bào loé lên, nhấp nháy liên lỉ, những tế bào sanh diệt cứ sáng tắt thay nhau. Thân thể y ảo diệu như con sứa dưới ánh đèn phản quang ở thuỷ cung. Tâm thần y sảng khoái cực độ, y như hoàng tử lạc giữa vườn địa đàng, mặc dù đang ngủ nhưng y thoáng nụ cười hạnh phúc trên môi. Khi y với tay chạm vào hình ảnh những quyển sách lung linh và ánh sáng xuyên qua người y, cứ ngỡ như cảnh tượng ngón tay của chuá chạm ngón tay Adam để tạo linh hồn cho con người, cái phút giây ảo diệu siêu thực tràn đầy hoan hỷ. Y còn ngất ngây trong cơn mơ thì nghe tiếng thì thầm.

 - Cậu chủ đã thổi hồn vào những trang giấy, cậu chủ cho ta sự sống. Mỗi cuốn sách có một sinh mệnh riêng, nếu con người thiên sai vạn biệt thì bọn sách chúng mình cũng thế, có cuốn nào giống cuốn nào đâu, đó là sự phong phú của thế giới chữ nghĩa. 

 Một quyển sách có bìa màu xanh da trời với hình minh họa của một họa sĩ nổi tiếng vẽ hình một chàng trai nằm dài trên thảo nguyên, miệng ngậm cộng cỏ, xa xa cô gái tết hoa dại đội đầu. Quyển sách thì thầm.

 - Gần đây cậu chủ làm thơ rất ít, thậm chí không muốn làm thơ nữa. Cậu chủ bảo bây giờ thơ nhiều quá, nhiều như lá thu đổ nhưng nhạt, phần nhiều tả tình vu vơ nhăng nhít, tả cảnh rất xoàng…Bọn dựa hơi chính trị thì không đáng để nói, chỉ viết ca tụng tâng bốc chứ chẳng có giá trị nghệ thuật. Cậu chủ phàn nàn bọn làm thơ tân hình thức, hậu hiện đại, siêu tưởng, trừu tượng  là những kẻ phá hoại thơ. Những loại thơ ấy đọc nghe lôm côm, chữ nghĩa lởm chởm nhưng bánh xe bị xì hết hơi mà chạy trên mặt đường sỏi đá. Bọn họ phá bỏ quy tắc ngữ pháp tối thiểu, viết tùy tiện, ngắt câu, xuống hàng lộn xộn, tên riêng cũng chẳng cần viết hoa…Bọn họ cho những cái sai ấy là sáng tạo, là hiện đaị. Hình thức là thế, nội dung thì vô nghĩa, ngô nghê, dung tục thậm chí rất bẩn thỉu… Ấy thế mà bọn họ đắc ý cho là xuất chúng, là phát minh mới…Có lẽ từ đây mà cậu chủ không muốn làm thơ nữa, khi có cảm hứng cũng viết nhưng cậu chủ giấu đi chứ không phô bày ra như trước đây.

 Một quyển sách khác với bià màu vàng tươi, những bông hoa li ti lấp lánh như hoa nắng, những đoá hoa nhỏ xíu nhưng đủ màu sắc góp lời:

 - Cậu chủ thường viết bài với khí vị thời gian và phong thái vô cùng lãng đãng, man mác tình sầu, nước non u mặc… nên không được nhiều người thích. Thời đại hôm nay người ta thích sắt đá máu lửa, mãnh lực quyền tiền, tình thù bá đạo… không chạy theo thị hiếu thị trường, cậu chủ đi con đường riêng của mình, dẫu có vắng vẻ độc hành nhưng cậu chủ quyết không đổi thay.

 Cứ thế, các quyển sách lần lượt nêu tâm sự, giấc mơ hồng cứ kéo dài cho đến khi đồng hồ báo thức reo vang. Sáng chủ nhật trời thật đẹp, quán cà phê đầy nhóc khách. Y cùng với nhóm bạn thân ngồi nhâm nhi ly cà phê và tán gẫu, một người trong nhóm nói.

 - Nghe nói văn sĩ in sách mới, có bán được quyển nào chưa vậy? thời đaị công nghệ thông tin bùng nổ, mạng Internet phủ sóng khắp mọi nơi, thế mà các ông văn sĩ, thi sĩ còn in sách làm chi hổng biết nữa? quả là gan như chiến sĩ. Nếu bọn họ viết chuyện cười, chuyện hài hước, tiếu lâm, chuyện cà kê dê ngỗng thì là tếu sĩ. Còn giả như bọn họ dám viết về dân oan nước loạn, quan quyền nhũng nhiễu, côn đồ kết cấu với các thế lực chính trị, triều đình khi dân, đạo đức suy đồi, văn hoá lai căng… thì bọn họ quả là có tấm lòng nghĩa sĩ, can đảm như dũng sĩ, chí khí tựa tráng sĩ, sử sẽ nhìn nhận họ là kẻ sĩ. 

 Một người bạn khác thêm vào

 - Trong số các thi sĩ, văn sĩ ấy cũng có một số ít trở thành tử sĩ vì ngòi bút của họ 

Có một người bạn xưa nay vốn ít nói, kiệm lời, phần nhiều bạn bè gặp nhau ai cũng nói tràng giang đại hải mà anh ta chỉ lắng nghe, đôi khi tủm tỉm cười chứ anh ta chẳng bao giờ phân trần hay nói năng chi. Mấy người bạn kia lắm lúc bực mình, quát

 - Ai cũng góp lời cho vui, sao mày chỉ biết nghe mà không chịu nói? Mày có phải con cò đâu mà chỉ biết lắng cổ nghe.

 Bị chửi mà anh ta vẫn cười chứ chẳng cãi, vậy mà hôm nay bất thình lình lên tiếng:

 - Bọn họ đa phần chỉ viết chuyện tình, chú trọng nghệ thuật, ca ngợi cái đẹp, tạo tác cái đẹp để dâng cho đời kể cũng là nghệ sĩ. Tôi biết trong số họ có một số người sáng tác để thể hiện cái tâm, nói lên cái chí của mình. Những người ấy xem nhẹ cuộc đời này, tự coi mình như kẻ lãng du, đến ở tạm rồi đi. Họ chẳng tranh đua giành giật gì với người đời, có những thứ người đời cho là quý thì những tay du sĩ ấy cười khẩy. Bọn họ là những tay du sĩ trong cõi đời nhiễu nhương ô trọc này. 

 Một người bạn khác vốn là đaị gia mới nổi, anh ta thành công trên thương trường. Hôm nay bạn bè gặp mặt, anh ta cũng tranh thủ đến tham gia và cái chính là để khoe sự giàu có của mình, nghe mọi người bàn về sĩ, anh ta hợm mình:

 - Sĩ gì thì sĩ, nhưng có thực mới vực được đạo. Đời cũng thế, phải có tiền, không tiền thì đời khi dễ mình. Văn sĩ, thi sĩ là cái danh hão, hữu danh vô thực, chi bằng anh theo tôi chơi chứng khoán, làm đại lý buôn sỉ thì may ra mới ngóc đầu dậy được, lúc đó thì anh tha hồ in sách, cầm bằng cứ rị mọ viết lách thì suốt đời chỉ là anh hàn sĩ mà thôi! 

 Y chiêu một ngụm nhỏ cà phê, cái đắng thấm đầu lưỡi lan toả vào từng tế bào, may nhờ cái vị ngọt của sữa đặc dung hoà bớt cái đắng, mùi thơm của cà phê quả thật khó cưỡng, dù đắng, dù cồn cào trong bụng nhưng y vẫn thích uống cà phê mỗi sáng. Cứ như thế, y cầm ly cà phê trên tay, thỉnh thoảng laị hớp ngụm nhỏ và lắng nghe đám bạn bàn luận, góp ý. Lâu lâu y cũng thốt lên:” thế à” để mọi người biết là y còn uống cà phê chứ chưa ngủ gục. Y tuyệt nhiên không bàn luận dù là đồng tình hay phản đối, những lời góp ý dù nghịch tai hay thuận tai y cũng cười khì mà thôi. Kể cũng lạ, đám bạn thao thao bất tuyệt, người nào cũng cho là mình phải, nói lời thật, mà hình như bọn họ cứ nói chứ không hề quan tâm có ai nghe hay không nghe. Những bàn bên cạnh khách khứa cũng oang oang không kém, tiếng nói, tiếng cười hoà với tiếng nhạc xập xình, màn hình ti vi loang loáng cảnh ca sĩ 8x, 9x nhảy múa uốn éo loạn xà ngầu. Nhóm ca sĩ nhuộn tóc vàng, đeo kính áp tròng mắt xanh, quần áo te tua, giọng lớ lớ, ngọng nghịu, ca từ ngô nghê… y cố nghe để hiểu nhưng không biết bài hát muốn nói gì. Những ca sĩ, kịch sĩ, vũ sĩ cứ như hình nhân nhân bản hàng loạt, tất cả  na ná như nhau cả. Y không tài nào phân biệt được ai với ai, nghe giọng hát thì càng chịu thôi, cứ ngỡ từ một họng mà ra. Những nhạc sĩ bây giờ vốn sống không có, vốn từ nghèo nàn, ngôn ngữ lệch lạc hiểu biết ít ỏi… cho nên sáng tác ra những ca khúc dú ép chín non. Người nghe đôi khi cũng ư ử hát theo chứ thực tình cũng chẳng để ý ca từ hay nội dung. Người nghe ở quán này hay quán khác, ở thành phố này hay thành phố khác của xứ sở này cũng đều như thế cả! Nghe có mà nghe, miễn có âm thanh xập xình, tưng tưng là đủ rồi. Đôi lúc y cũng lẩm nhẩm theo lời nhạc, cũng gật gật như thẩm thấu nhưng thực tình y cũng mù âm nhạc, có biết gì nhạc lý đâu, chẳng qua y lắng nghe ca từ thôi. Y còn miên man nghĩ vẩn vơ, đời bây giờ nhiễu nhương lắm, đòi hỏi chất lượng là việc không thể có. Những bậc nhân sĩ, chí sĩ như sao buổi sáng, người liêm sỉ càng hiếm, duy có bọn bệnh sĩ ( diện) thì nhiều vô số. Bạn bè của y đa số cũng là những tay bệnh sĩ nặng nề, nào khoe nhà to xe lớn, làm ăn phát đạt, con cái thành tài, du hí đông tây…cái bọn bạn bệnh sĩ ấy nhìn y cũng khác, có kẻ còn tế nhị giữ cái sĩ cho người khác, nhưng cũng có đứa thô lỗ lắm.

 - Sách của anh có nấu chín nổi nồi chè không? tiền của tôi thì có thể đấy! 

 Y không trách gì kẻ ấy nhưng y biết anh ta cũng có chút thật, quả thật anh ta có thể lấy tiền nấu chín nồi chè như chơi, anh rất giàu. giàu kinh khủng lắm, bao nhiêu rừng cây cạo sạch, núi đồi san xẻ để bán, sản vật tự nhiên biến thành biệt phủ, thành tài khoản lớn trong nhà băng…Việc anh ta đem tiền nấu chè quả thật dễ như chơi. Thói đời càng giàu bệnh sĩ càng cao, càng mạnh vì gạo bạo vì tiền, biết thế nên y chẳng thèm trách chi. Khi mới viết lách, y những tưởng sách mình sẽ được bạn bè ủng hộ, sẽ được thiên hạ trân qúy nào ngờ sự thật phũ phàng quá, từ đó y không còn dám khoe sách nữa, có in thì cũng chỉ in chút chút để giải toả cái tình mê sách mà thôi! 

 Một đêm nọ, khi còn mơ màng trong cơn ngái ngủ, y nghe tiếng vợ cảnh báo:

 - Tiền lương tháng rồi anh giấu ở đâu? có phải đem in sách mới? em xin ông văn sĩ tha cho em, đừng lấy tiền lương in sách nhé! Em không muốn bọn chủ nhà băng thâu hồi nhà, xe đâu! đời em lỡ lấy anh rồi, không chừng sẽ thành khất sĩ thì tội thân em.

 

TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 12/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.