Hôm nay,  

Yến

28/12/202015:25:00(Xem: 5086)

Thế là được ba năm theo nghề, An bây giờ đã là một thợ leo giỏi có tiếng của công ty. Ngày mới vào nghề, ai cũng cười An, chê nó không thể leo được. Anh Bàn, người giới thiệu dẫn dắt nó vào nghề nhiều lúc cũng gắt:

 - Mầy nhát hít, làm sao làm được đây?

 Chú Bội an ủi

 - Từ từ sẽ dạn thôi, khi xưa chú mới vào nghề cũng vậy! 

 Mấy tháng đầu người ta cho nó theo làm phụ những việc vặt vãnh, tập leo dưới thấp, nhớ lần đầu leo lên giàn. An run cầm cập, những cây tre trông nhỏ bé và mong manh quá, sóng dưới chân vỗ ì oạp, vách đá chỗ thì nham nhở, chỗ thì trơn trượt, từ trên giàn nhìn xuống muốn chóng mặt. Nhưng vào nghề rồi thì phải chịu, mỗi ngày leo cao hơn chút nữa, có không ít lần An muốn bỏ cuộc, nhìn vách đá thấy ớn lạnh sống lưng, gió rít rần rật, sóng biển ầm ầm vậy mà mồ hôi mặt chảy xuống môi mằn mặn. An cũng chẳng còn tâm trí nào để phân  biệt cái mặn do hơi nước biển đọng laị hay do mồ hôi. Tập riết rồi quen, ngày An gỡ được ba mươi tổ yến đầu tiên, Anh mừng lắm, coi như đã thạo nghề. Nhóm thợ đi chung vỗ vai An chúc mừng:” chú em khá lắm”.

 Thời gian vẫn vô tình trôi qua, con nước cứ đầy rồi vơi, hết muà gió chướng thì xuân laị về. Đàn yến bắt đầu làm tổ để chuẩn bị đẻ trứng. Những người thợ laị dong thuyền ra hang lầy tổ yến về cho công ty. Yến bay rợp trời, trông nhỏ xíu vậy nhưng sức dẻo dai khó có ai bì kịp, mỗi ngày nó bay cả trăm dặm để kiếm thức ăn. Sự kiên nhẫn của yến cũng không ai sánh bằng, không từ ngữ nào mô tả trọn vẹn. Yến khạc nước dãi từ trong thân của mình để trét thành tổ, An và những người thợ leo gỡ lấy tổ của nó. Nó laị kiên nhẫn vắt kiệt nước trong thân để làm tổ lần thứ hai, rồi cũng bị con người cướp đi. Lần thứ ba thì nước trong người nó không còn đủ, nó phải khạc cả máu để làm tổ, những cái tổ lần thứ ba này có những sợi màu đỏ của máu nên gọi là huyết yến. Con người ta qúy lắm, giá mắc kinh khủng, Người ta cho huyết yến là cực kỳ bổ dưỡng và sung sức. An và những người thợ lấy tổ yến đem về cho công ty, người ta sơ chế rồi đóng hộp để bán cho giới nhà giàu và phần nhiều là để xuất khẩu. Tổ yến là một trong những món ngon bổ dưỡng hàng đầu, là món mà những người nhiều tiền ưu tiên chọn, bọn họ dùng yến bồi bổ thân để hưởng thụ lạc thú cuộc đời. Nếu ngày xưa chỉ có vua và hoàng gia mới được dùng, bây giờ thì giới quan gia, đaị gia nhiều tiền lắm của xài thoải mái,

 Tổ yến đầu tiên mà An gỡ khỏi vách đá là yến loại hai, trong tổ còn có hai con chim non đang há mỏ chờ mẹ mớn mồi. An lúng túng không biết đặt hai con chim non kia vào đâu để gỡ tổ. An đeo mình trên giàn tre, bám sát vách đá, bên dưới sóng biển vỗ ào ạt, vực sâu thăm thẳm, trên đầu bầy yến bay loạn xạ. Yến thấy những người thợ leo lên vách đá cướp tổ của nó, chúng nó bay lượn quanh những người thợ, kêu rít rít liên hồi, cái âm thanh nhỏ nhưng cộng hưởng của cả chục ngàn con và hồi hưởng của vách đá làm cho âm ấy như mũi dùi xoáy vào tai. Cái âm thanh của sự tuyệt vọng, sự cầu cứu mà những con yến bé nhỏ hiền lành đành chịu bất lực, chỉ còn biết cất tiếng kêu bi thương. Trong khoảng khắc cực kỳ ngắn, An nhớ lời những người thợ lành nghề truyền dạy:” Cứ vứt trứng và chim non để lấy tổ”, với trứng chin thì An vứt mà không có bất cứ vấn vương gì, nhưng đây là hai con chim non, nó đang chờ mẹ nó mớn mồi, nó hiền lành và vô tội, nỡ nào ném xuống biển? Lòng An thấy bất nhẫn không đành, An đu mình lòn qua mấy cây sào tre tìm đến những cái tổ khác, càng leo cao, lòng hang càng hẹp và tối dần, mức độ nguy hiểm cũng tăng theo độ cheo leo, được cái lên cao thì tổ yến mới nhiều, những ngóc ngách nguy hiểm thì tổ yến dày đặc, những cái tổ trắng trắng xinh xinh như bàn tay, như miếng bánh hỏi. An với tay tới một tổ yến trước mặt, laị đụng phải chim non, rướn thêm tí thì thấy rõ hai con chim con còn chưa mở mắt, nằm gọn cái tổ xinh xinh. Anh rụt tay laị, cứ như thế suốt cả buổi, tổ nào cũng có chim non. Đến buổi nghỉ để ăn, An đếm số tổ lấy được quá ít. Anh Bàn la lối:

 - Làm ăn như vậy thì tiêu tùng! Có nhiêu đó sao đủ sở hụi chi tiêu trong ngaỳ, còn nói chi đến vợ và con ở nhà trông đợi!

 Anh Bàn vào nghề đã lâu, anh thấu hiểu vì sao An chỉ lấy được nhiêu đó. Anh cũng đã trải qua những giây phút ban đầu khi gỡ tổ yến gặp chim non, cũng ngần ngại, cũng dằn vặt không nỡ ném, rồi một lần nhắm mắt tặc lưỡi ném, cứ thế làm tới nên cảm giác chai sạn dần, lâu riết chẳng còn xúc cảm nữa, cứ gặp là ném thôi, giờ thì anh cũng như những người thợ khác, cứ ném chúng như ném hòn sỏi xuống biển. Anh tâm sự:

 - Cũng vì cơm áo gạo tiền nên phải làm thế thôi, mình không cố ý haị nó, nhưng không làm thì vợ con sống sao đây?”

 Chú Bội rít một hơi thuốc lá rồi ném tàn thuốc xuống biển, chú laị hớp một chút nước mắm nhĩ để giữ ấm thân. Chú là người có thâm niên lâu nhất nhóm thợ, nhiều anh  em được chú dạy cho cách dựng giàn tre, cách leo và cả cách đối phó với những con rắn biển khi gỡ tổ yến gặp phải. Chú Bội khô đét, đen nhẻm, cái khô rắn rỏi của dân biển, cái thân thể ấy được trui rèn qua nước mặn, gió biển và sự leo trèo bao nhiêu năm nay. Chú bảo An:

 - Trước khi ra hang đã cúng tổ rồi, mình làm nghề này thì phải vậy thôi, mình không cố ý hại chúng nhưng mình và người nhà cần phải sống!

 An ngồi lặng lẽ không nói lời nào, nó co ro mắt nhìn đăm đăm ra biển. Nó vốn không nghề nghiệp gì, lông bông riết vừa chán đời vừa không có tiền chi tiêu. Anh Bàn là anh họ của nó, xin cho nó vào công ty để đi lấy tổ yến, từ ngày vào nghề, vừa có tiền cho vợ con vừa bớt phải nhậu triền miên. An thấy vui hẳn lên, cái vui chưa được bao lâu thì nó phải đối mặt với sự nghiệt ngã của nghề này. Bản tâm nó còn trong sáng và hiền thiện, nó không nỡ quăng chim non xuống biển. Ngày trước khi chưa vào nghề, trong những cuộc nhậu nó vẫn thường nghe người ta kháo nhau về cái chuyện lấy tổ yến quăng chim non. Bạn nhậu nhiều người cho là ác, thất đức, nào ngờ bây giờ nó laị ở vào hoàn cảnh oái ăm này. An suy nghĩ mông lung về những tổ yến với chim non; về những người thợ làm chung như anh Bàn, chú Bội; rồi còn vợ con nó đang ở nhà trông ngóng… Không biết định mệnh thế nào mà người vợ yêu thương của nó laị mang tên của loài chim nhỏ bé hiền lành kia. Nó đang tham gia phá tổ của loài chim mang tên vợ nó, vợ An không đẹp nhưng được cái hiền và thủy chung, laị chu đáo trong ngoài, những ngày An chưa có việc làm, vợ nó vẫn bươn chải lo ba bữa cơm cho cả nhà, nhiều lần nó nhậu say về quậy phá nhà cửa  nhưng vợ nó vẫn nhẫn naị chịu đựng. Thế rồi đứa con ra đời, túng thiếu laị càng thêm ngặt hơn, từ ngày vào công ty đi lấy tổ yến, nó có tiền để vợ con chi tiêu, lòng nó vui và trở nên nhẹ nhõm làm sao. Lúc mới vào làm, lương bổng chẳng bao nhiêu, vì người ta trả lương theo sản phẩm, dần dà thạo việc nên lương cũng tăng lên, tuy chẳng thể gọi là dư dả nhưng tạm đủ trang trải cho vợ con, ngoài ra cũng có dư chút đỉnh để dành phòng khi đau yếu, những tưởng suôn sẻ xuôi chèo mát mái. Bây giờ An đối diện với việc ném chin non xuống biển, lòng An thật bất an, không ném chim non thì không có sản phẩm, bỏ việc này thì biết làm gì bây giờ? rồi vợ con và cuộc sống ra sao? cả trăm mối ngổn ngang. Giờ lên giàn laị đến, anh Bàn vỗ vai An:

 - Đành vậy thôi, bằng không thì vợ con sẽ ra sao? Chim cũng chỉ là loài vật, người ăn súc sinh chim muông là chuyện thường tình! 

 An không ừ hữ chi, uể oải đứng dậy đi theo anh Bàn, thật tình An chẳng thấy mình có đồng ý hay không đồng ý lời anh Bàn vừa nói. An biết việc người ăn súc sinh là thường, nhưng ném chim non xuống biển laị là việc khác. Leo lên giàn mà lòng An trống trải lạ thường, tâm tư dường như lúc này ở đâu đâu, xa xa bên kia vách đá là chú Bội, còn anh Bàn thì gần như chạm trần hang. Hàng vạn con yến bay loạn xà ngầu, tiếng kêu lích rích va vách đá dội laị nghe nhức cả tai. Cái sóng âm của kẻ thấy hiểm nguy, tiếng kêu của kẻ biết sắp mất tổ, mất con xoáy vào trong tâm những con người khốn khổ kia. Họ cũng đang kiếm cơm cho vợ con họ, họ cũng lo cho tổ ấm của họ, biết làm sao bây giờ, cuộc chơi nghiệt ngã của dòng đời! Sóng biển ào ạt nhưng không át nổi sóng âm rít rít của loài chim yến. An vói tay gỡ cái tổ bên phải, vì xa quá và chất nhờn gắn chặt nên cái tổ rách ra, mấy cái trứng rơi xuống như hạt bụi, trứng chim quá nhỏ mà không gian bao la nên mấy cái trứng rơi xuống là mất hút ngay. An gỡ tiếp một cái tổ trên đầu, hai con chim non rơi xuống, tiếng kêu chíp chíp vừa lọt tai là cái thân chim mất hút không còn thấy đâu cả, tiếng kêu cũng bị gió bạt đi. An cắn răng làm tới, những cái trứng và những con chim non cứ thế rơi xuống biển, không còn suy nghĩ gì nữa, An cứ gỡ tổ yên như một người máy. Lòng nó khép laị để khỏi phải phân tâm, thả những con chim nhỏ xuống biển mà lòng trống không, đơn giản chỉ là cái tay làm mà thôi, mắt không còn nhìn theo cái cục thịt bé tí hon rơi như lần đầu nữa. Mắt An giờ đang bận soi bói tìm kiếm những tổ yến khác trong những kẹt đá, những lỗ hổng hay ẩn sau lớp vách lởm chởm. An leo lên một cái ngách khác, ở đó có vô số tổ yến ken trắng vách. Những con chim yến thấy người vụt bay ra ào ạt, cũng có những con ở xa hơn một chút thì bám vách đá nghiêng nghiêng đầu thám thính. An thấy rõ nhiều con khác vẫn miệt mài quệt nước dãi làm tổ, vệt nước dãi sền sệt từ miệng chúng chảy xuống và quyện vào cái tổ còn dở dang. An trườn người tới, gỡ thêm khá nhiều tổ yến, có tổ còn hơi âm ấm của thân chim, của chất nhờn chưa kịp khô. Cái túi An đeo cũng gần đầy, An nhủ lòng gỡ thêm tí nữa sẽ xuống. An đu mình leo lên chừng hai mét nữa, những tổ yến như bàn tay nhỏ nhắn trắng trẻo của cô gái, một cái tổ khá to so với những tổ chung quanh, An nhìn thấy hai cái mỏ nhỏ xíu đang há to, kêu chíp chíp, bỗng hai con chim trống và mái, có lẽ bố mẹ chúng, bay vụt qua mặt An, chúng nó cứ bay xà quần quanh An , vừa bay vừa kêu rin rít. Anh không hiểu là chúng tấn công mình hay chúng van xin mà tiếng kêu thảm thiết quá.  An, một tay bám chặt ngách đá, một tay vung xua đuổi chim, hai con chim kia dường như quyết liệt bảo vệ tổ và chim con. An cũng quyết lấy tổ để lo cho tổ ấm của mình, cả hai cùng quyết liệt nhưng cái quyết liệt của chim sao bằng được cái quyết liệt của người. An cheo leo trên vách đá, trông vô cùng nhỏ bé, nhìn từ xa thì An cũng không khác cái tổ yến dính trên vách đá kia. So với An thì con chim kia còn nhỏ biết là bao giữa cái không gian mênh mông này. Nó đã nhỏ máu để làm tổ, nó đã bay hàng trăm dặm để kiếm mồi nuôi con, nó đã mang nặng và đẻ đau nhưng muôn loài khác, sức nó chưa kiệt nhưng tánh linh nó đau đớn đến cùng cực. Khi An ném hai con chim con của nó xuống biển và gỡ cái tổ bỏ vào túi thì cũng là lúc An nghe tiếng rít chít chít bén như dao xoáy bên tai. Hai con chim cả trống và mái lao thẳng vào vách đá như mũi tên bắn, hai cái xác lập tức rơi xuống biển, một vài cộng lông chim phất phơ theo gió giữa hư không. Vách đá xám xịt in một vệt máu tí xíu. An há hốc mồn kinh ngạc trước sự việc diễn ra quá nhanh và khốc liệt, trong khoảng khắc vô tình, An buông tay bụm miệng thì cả thân thể An rơi theo hai con chim kia. Thân chưa chạm đáy hang hay sóng nước, thân An còn lơ lửng giữa không trung. An như ngủ mê, thấy thằng cu tí đang há miệng chờ mẹ nó đút cơm, thằng cu tí háu ăn, cơm đút không kịp nó la hét ầm ĩ, tiếng hét tắt lịm khi An chạm tảng đá đáy hang. Những tiếng hét khác của chú Bội, anh Bàn và những người thợ khác đồng loạt vang lên, tiếng hét cộng hưởng từ vách đá của hang dội laị như kéo dài ra trước khi tan loãng vào hư không.

 Cuối năm ấy yến sào hút hàng, có bao nhiêu cũng không đủ bán, giá laị cao ngất ngưỡng, một ký lô lên đến bốn ngàn đô la Mỹ, đó là loại hạng hai, loại huyết yến thì phải đến năm ngàn hoặc hơn nữa. Nhà hàng Đại Phúc Trung là một mối làm ăn quan trọng của công ty, có bao nhiêu họ thầu hết, với hệ thống chân rết của mình, Đaị Phúc Trung không chỉ dùng yến để phục vụ thực khách lắm tiền của trong nước mà còn để xuất khẩu qua Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Mỹ, Canada. Những nhà hàng thường bậc trung và giới bình dân khó mà với tới những món hàng đắt tiền này. Nhà hàng Đaị Phúc Trung, ngoài những món có tiếng xưa nay như: Nhân sâm bát bửu, hùng chưởng, tinh tượng, pín cọp… thì món huyết yến chưng đông trùng hạ thảo là một bí quyết ẩm thực riêng biệt. Dân chơi đồn đaị món ấy cực bổ dưỡng, người suy kiệt chỉ cần hai chén là phục hồi, khách huê tình ăn chơi trác táng nhất định phải dùng món này mới trụ được dài lâu. Một chén huyết yến với đông trùng hạ thảo có thể giúp khách làng chơi hành lạc cả đêm mà không mệt mỏi. Huyết yến chưng của Đaị Phúc Trung còn được đồn đaị là làm cho cơ thể tươi nhuận trẻ trung, da dẻ hồng hào, xanh tóc sáng mắt, sống thọ dài lâu… Bởi vậy, thực khách không chỉ là qúy ông mà còn là quý bà nhiều tiền lắm của, những phu nhân của quan gia, nữ đaị gia đều là thực khách thường xuyên của Đaị Phúc Trung. Giá của một chén huyết yến có thể lên đến hai trăm đô, tùy theo những món chưng kèm theo. 

 Ngày tất niên đến, Trần Nhất Thế, một ông trùm của thành đô vừa là cổ đông chính của nhà hàng, tổ chức tiệc chiêu đãi quan gia và những mối lái làm ăn ở Đaị Phúc Trung, những món sơn hào hải vị đã quá tầm thường với bọn họ. Nhà hàng bày chế ra món mới đặc trưng chưa có nhà hàng nào ở thành phố này nấu được, đó là món huyết yến chưng bạch noãn đồng trinh. Món này chỉ phục vụ cho một nhóm thực khách đặc biệt mà thôi. Những lời ca tụng cho sự bổ dưỡng và sung sức của món này thì khỏi phải nói, có thể coi như thuốc tiên, đẹp da, sung mãn, trường thọ…Thực khách đủ điều kiện để nếm thử món này không nhiều, nhất định phải là những người ngoài tiền bạc, thế lực còn phải là quen biết thâm sâu với Đaị Phúc Trung mới có cơ hội nếm qua. Khách của buổi tiệc toàn những tay có máu mặt như Lê Kim Ngân, một tay bán trời không văn tự, hàng hoá muốn xuất nhập đều phải qua tay y. Nguyễn Công Vụ, một ông trùm kinh tài, của chìm của nổi của các quan gia không thể thiếu sự tiếp sức của y. Lý Thừa Lệnh, ông trùm của những phi vụ giàn xếp, những rắc rối từ pháp luật cho đến xã hội đen, nếu không có y thì không thể yên…Đàn em xã hội đen của nhà hàng cùng với mật vụ của các quan bố trí mấy vòng để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho cuộc vui của các đaị ca và quan gia. Với thế lực và tiền bạc của họ, những món ăn dầu cầu kỳ và đắt nhất thiên hạ, những trò chơi thác loạn đến loài vật cũng không thể bằng đều có cả trong đêm nay. Giang hồ đồn rằng, bọn nhà giàu Âu - Mỹ tuy giàu hơn nhưng không thể sướng bằng bọn quan gia và đaị gia trong nhà hàng Đaị Phúc Trung này.

 Sau bữa tiệc ấy, ngày kế tin tức nóng hổi từ báo chí đăng một cái tin ngắn gọn:” Ông Lê Kim Ngân bị chết vì té lầu hôm tiệc tất niên”, ngoài ra không có bất cứ bình luận hay thông tin nào khác. Thiên hạ xì xầm đoán già đoán non nguyên nhân chết, nào là: say rượu bất cẩn, thủ tiêu diệt khẩu, tranh ghế hạ độc thủ, nhóm đối đầu nhanh tay hơn…dù xôn xao vậy nhưng gia đình và cơ quan chủ quản vẫn giữ im lặng theo đúng câu ngạn ngữ “ thủ khẩu như bình”. Chuyện ông trùm Ngân chưa yên thì dân mạng laị dậy sóng vì cái tin ông Nguyễn Nhất Thế bị bệnh lạ. Người ta bảo sau bữa tiệc huyết yến chưng bạch noãn đồng trinh ấy, ông Thế tự dưng da thịt trương phù và nhiều vết nứt rỉ ra những tia máu, trông giống như những sợi huyết trên tổ huyết yến, hai tay và chân thì quắp laị như đôi cánh yến gãy nhưng có kẻ laị bảo giống hình dạng bào thai trong bụng mẹ. Có vô số bình luận trên mạng, nhiều người ra vẻ rành đông y bảo:” Huyết yến đã bổ, laị chưng với bạch noãn đồng trinh nên chất bổ bộc phát mạnh, làm cho những mạch máu xung huyết nên vỡ, vả laị nhiều chất khác xung khắc nhau cùng nạp vào cơ thể cùng lúc nên kỵ nhau…”. tất nhiên cũng có không ít những ý kiến thiên về tâm linh tỷ như báo oán của nhau thai. Có người khẳng định:”Những con yến non chết oan và những con chim yến mất tổ, mất con đã báo oán”. Ngoài ra còn có vụ ông trùm giàn xếp họ Lý bị ngã ngựa phải xộ khám, gia đình phải bồi hoàn hàng triệu Mỹ kim…Thiên hạ hả hê, dân mạng khen chê không tiếc lời, giữa một rừng tin tốt có, xấu có, giả có, thiệt có, đúng có, sai có… nhưng chuyện mấy ông trùm sau bữa tiệc huyết yến tưởng chừng như nhất thiên hạ kia laị hoá ra là tiệc hoạ. 

 Mùa xuân rồi laị đến, đất trời như tươi mới hơn, muôn hoa đâm chồi nảy lộc. Chị Yến dắt cu tí ra nghĩa địa bên chân núi giáp biển để tảo mộ cho anh An. Chị chú tâm đốt hương khấn vái rì rầm, cầu anh sống khôn chết thiêng phù hộ cho cu Tí. Cu Tí thì chạy lúp xúp dọc mép biển rượt đuổi những con hải âu. Từng bầy chim yến bay rợp cả khoảng trời, bay xập xoè trên mặt biển, cánh yến chao lượn giữa muôn trùng nước non, chúng laị tìm về hang cũ miệt mài nhỏ dãi xây tổ. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 12/2020

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đã được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới. Dù đã ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt vì người viết đã tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Bắc Việt. Bài viết này đã được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nhận định là chính xác đến 95%.
Máu đã đổ suốt từ thời chiến tranh cho tới lúc hòa bình 45 năm nay, những giọt máu của người dân trong nước khao khát nền Tự Do Dân Chủ vẫn còn chảy trong nhà tù với những bản án khắc nghiệt dành cho họ và những người đã chết đều có thật. Rất thật.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Dù tôi đã sống trên đất Mỹ nhiều năm rồi, nhưng thỉnh thoảng, trong giấc ngủ hằng đêm, tôi vẫn gặp ác mộng về những lần trốn chạy kinh hoàng của một người bị săn đuổi. Choàng tỉnh dậy giữa đêm, tôi nhớ lại rất rõ nét những giấc mơ vừa trải qua, mồ hôi toát ra như tắm vì tôi như vẫn còn nghe văn vẳng đâu đây tiếng kẻng báo thức rõ mồn một, tiếng kẻng của các trại giam cộng sản Việt Nam được làm bằng những cái niềng (rim) xe hơi và dùng 1 thanh sắt gõ vào tạo thành 1 âm thanh vang rất xa. Ai từng ở tù hay bị đày ra những trại cưỡng bức lao động, hoặc trại tập trung cải tạo của cộng sản Việt Nam thì không bao giờ quên được tiếng kẻng này.
46 năm sau biến cố cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, và 32 năm sau vụ thảm sát Gạc Ma nơi quần đảo Trường Sa 1988, cả hai đều do bàn tay vấy máu của Trung Cộng. Không chỉ bằng vũ lực, Bắc Kinh nay còn viện dẫn Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng ký như bằng chứng pháp lý gây khó khăn cho Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Kim lái chiếc xe Honda đi biếu cái bánh chưng cuối cùng vào lúc 7 giờ sáng ngày 30 Tết năm 1975. Tuy có bao nhiêu lần thức khuya học bài, nhưng đây là lần đầu tiên Kim thức trắng đến sáng, cái đầu nhức như búa bỗ, óc trống rỗng, người lâng lâng như muốn bay lên mây...
Mở đầu nhật ký tuần này xin được góp phần tưởng nhớ các nhân viên y tế, đặc biệt là các y tá (những thành viên trong đội ngũ thiên thần áo trắng ở tuyến đầu chống dịch bệnh Vũ Hán) ở khắp nơi trên thế giới đã "sinh nghề tử nghiệp". Tính đến đầu tháng 4 năm 2020, đã có hơn 100 "thiên thần áo trắng" qua đời vì bị lây nhiễm Coronavirus từ bệnh nhân, hơn một nửa là nhân viên y tế ở Ý.
Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.
Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người.Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ.
Trời Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services -Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở thanh bình.
Thôi thì khỏi nói, mọi người tay bắt mặt mừng, ai ai cũng vui như hội. Bà Tám đầu hẻm oang oang: - Thằng nhỏ coi bộ phổng phao ghê vậy ta, hồi còn ở đây gầy nhom, da bánh mật. Nó qua bển một thời gian giờ thay da đổi thịt quá, nếu đi ngoài đường chắc tui nhận hổng ra. Cả nhà quây quần tíu tít, bia bọt khui lốp bốp. Tuị bạn ngày xưa bá vai kề cổ giờ cũng ra ông nọ bà kia hết trơn. Chỉ có mỗi thằng An là lẹt đẹt làm anh công chức quèn thôi!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.