Hôm nay,  

Chuyện Bây Giờ Mới Kể

27/07/202111:41:00(Xem: 5131)
 
 
Kỳ thị

Trước Noel n
ăm 1990, Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ trên đường đi từ Nhật Bản ra vịnh Persian tham dự chiến dịch Bão Sa Mạc, có vớt được hai ghe vượt biên ngoài khơi Nha Trang. 6 chiến hạm ghé vào căn cứ Hải Quân ở vịnh Subic, Phi Luật Tân lấy tiếp tế và chuyển giao người vượt biên tị nạn Cộng Sản cho Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc.

Chưa chuyển giao nên những người vượt biên phải ở lại trên chiến hạm không được phép xuống bờ. Đám lính Mỹ gốc Việt kéo đến thăm và làm thông dịch viên.

Vừa mới thoát hiểm, vừa mới thở được không khí tự do, nhóm người vượt biên Công Giáo tỏ ý muốn đi lễ ngày Chúa Nhật. Khâm phục lòng tin của họ!

Trình bày ý nguyện của họ với hạm trưởng và hạm phó - dể dàng, vui vẻ chấp thuận. Chuyện nhỏ!

Chạy đến nhà thờ trong căn cứ, trình bày ý nguyện của họ với vị linh mục - dễ dàng, vui vẻ chấp thuận. Chuyện nhỏ!

Dân tị nạn không đến được nhà thờ thì nhà thờ sẽ đến với họ.

Sáng Chúa Nhật, vị linh mục Thiếu Tá Tuyên Úy lên tàu, đi một vòng thăm hỏi, chúc mừng những người vượt biên tị nạn CS.

Buổi lễ được làm ở sân đáp trực thăng - đuôi tàu. Bàn ghế đầy đủ. Có nhóm lính khá đông của hạm đội biết tin nên ghé đến dự lễ chung thay vì đi lễ nhà thờ trong căn cứ.

Khi đang phụ vị linh mục sắp xếp bàn thờ, chuẩn bị trong đầu từ ngữ để thông dịch cho buổi lễ thì người vợ của một chủ ghe vượt biên ngoắc tay, tỏ ý muốn nói chuyện.

-Chị cần gì?
-Em ơi! Em có thể đổi vị linh mục này được không?
-Tại sao vậy, chị?
-Tụi chị muốn Cha Mỹ, còn Cha Phi làm lễ không có linh.
Lạy Chúa!
 
CCC
July 2018
 
 
Anh là người Việt Nam?

Tàu về quân cảng Yokosuka, Nhật Bản - nhà của Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ.

Trực xong, đói bụng, ngứa chân, nên tôi chạy ra phố trước căn cứ kiếm sushi hay bánh canh để ăn tối.

Đường phố về chiều, chỉ có vài người bộ hành vội vã bước chân.
Đang tà tà, thả hồn theo cảnh thì bên tai chợt nghe.
-Anh là người Việt Nam?
Đừng giỡn với tôi nghen! Trời mới chạng vạng mà ham vui rồi!
Không tin vào lỗ tai của mình, tôi đứng lại lắng nghe.
-Anh là người Việt Nam?
Có tiếng hỏi thiệt! Giọng nữ nhẹ thì thầm, thều thào!

Tôi đưa mắt nhìn quanh, tìm nơi phát xuất của giọng nói. Phố xá với những ánh đèn vàng mờ, vắng tanh. Xa xa có một vài người bộ hành.

Nhìn quanh quẩn tôi chỉ thấy một người nữ da trắng, nhỏ nhắn, bận đồ đen đứng dựa cửa một quán rượu. Cô ta đang nhìn tôi.

Đoàn xe sắc, thọ, tưởng, thức trật đường rầy bạo nghen! Thân tôi đang ở Nhật, mắt tôi thấy người da trắng, mà lỗ tai tôi nghe tiếng Việt.

Không biết vì thiếu ngủ, thiếu cơm, hay thiếu rượu mà bộ não của tôi đình công, không chịu làm việc. Phải khó khăn lắm tôi mới mở được miệng, hỏi một cách ngập ngừng, dò dẫm, không mấy tự tin.

-Em đang nói chuyện với anh?
-Anh là người Việt Nam? Cô gái da trắng kia có lẽ không tin lời tôi nên hỏi lại.
-Đại khái là vậy! Tôi không nở lòng nào nói tôi là người Mỹ với một cô gái chưa quen biết.
-Anh là người Việt thứ hai, em gặp ở đây! Em mừng quá! Thiếu điều cô ta nhảy cẫng lên. Nét vui mừng hiện rõ trên mặt.
-Em là con lai. Mẹ em mới bảo lãnh cho em qua đây. Cha em làm trong căn cứ nhưng ổng đi theo tàu rồi. Hồi ở Việt Nam, em sống với bà ngoại ở Tuy Hoà. Mẹ em muốn có tiền gởi về bà ngoại, nên xin cho em làm việc ở đây. Em ...
Tôi đưa hai tay lên ra dấu chận lại.
-Bên đây em không cần phải khai lý lịch ba đời. Chuyện gì từ từ rồi kể.
-Gặp anh, em mừng quá! Mời anh vô đây uống bia.
-Để một chút nữa. Anh phải đi ăn tối trước đã. Em ăn tối chưa? Lúc này tôi vẫn còn ham vui với rượu thịt.
-Em ăn rồi! Anh đi ăn nhanh, sớm về lại. Em chờ!
Vì sao cô ta biết tôi là người Việt là chuyện khác, nhưng tôi sẽ không kể đâu.
 
CCC
Nov 2019
 
 
Quậy nhưng không run!

Tháng bảy, 1995. Tàu vào quân cảng Sembawang, Singapore để dự một sự kiện lớn. Có đại sứ Hoa Kỳ và nhân viên tòa đại sứ đến dự, nhờ vậy mà tôi gặp được thằng Hùng, đại úy Biên Phòng (US Coast Guard), được biệt phái qua Singapore làm việc trong tòa đại sứ.


Biên phòng Hoa Kỳ mà làm việc ở Singapore? Tôi có thắc mắc đó nhưng bận công việc nên không rảnh để hỏi.

Không nói chuyện được nhiều nên tôi và Hùng hẹn nhau đi ăn tối - hy vọng có thời giờ nói chuyện thêm.

Sau ca trực, tôi rủ thêm ba thằng bạn trên tàu, hai đại úy da trắng và thằng thiếu úy Li đi ăn tối chung. Thằng Li là người Mỹ gốc Việt Hoa Chợ Lớn; không biết đi vượt biên bán chính thức lúc mấy tuổi mà nó không nói được tiếng Việt, còn tiếng Hoa thì lớ lớ.

Đi taxi đến tòa đại sứ thì thấy thằng Hùng đang đứng ngoài cổng chờ. Thằng Hùng qua Mỹ từ năm 75, nên không rành tiếng Việt; chúng tôi dùng tiếng Mỹ để nói chuyện với nhau.

Tôi không nhớ tòa đại sứ Mỹ nằm ở khu nào mà xung quanh toàn biệt thự to lớn và rất vắng vẻ.

Trời chạng vạng, đường vắng ít xe, không có hàng quán, chúng tôi đành đi bộ tà tà kiếm taxi. Đi được một lúc thì thấy phía trước có ánh đèn sáng, chúng tôi lần bước đến.

Đến nơi thì thấy “bỏ đảng sang giàu - bảng đỏ sao vàng”, có bảng đề chương trình gì đó bằng tiếng Việt (lúc đó không để ý, nên bây giờ cũng không nhớ luôn). Nhìn lại thì chỉ có một mình tôi nói tiếng Việt - cho nên khi có người nữ tiếp tân bước đến chào, tôi nói.

-Tụi tôi đến từ tòa đại sứ Mỹ.
-Mấy anh đứng đây chờ một chút. Nói rồi cô gái đó quay lưng đi.
Một vài phút sau, một người đàn ông bận đồ Tây bước ra.
-Mấy anh đến từ tòa đại sứ Hoa Kỳ?
-Đúng vậy! Tôi nói thật 100%, vì tụi tôi mới lội bộ đến từ tòa đại sứ. Ai muốn hiểu sao thì hiểu.
-Mời mấy anh vào!

Tôi ra dấu cho mấy thằng bạn đi theo người đàn ông đó. Bước qua cửa thì vào một tòa sảnh (nhà hội nghị) rộng lớn, có sân khấu, có bảy tám bàn VIP và hơn chục hàng ghế. Có khoảng mươi người trung niên nam nữ Việt Nam ăn mặc sang trọng đang đứng trò chuyện, họ quay nhìn chúng tôi - một đám trẻ ăn bận lôi thôi, áo thun, quần xà lỏn. Có thể đây là lần đầu những người nói giọng Bắc đó thấy những thằng Mỹ trắng, Mỹ vàng.

Có lẽ chúng tôi là khách VIP nên được sắp ngồi bàn “hạng nhất cải lương” - bàn đầu ngay chính giữa và sát sân khấu.

Quay lại nhìn thì thấy mấy người kia ngồi vào những hàng ghế phía sau, còn mấy bàn VIP chung quanh không có ai ngồi. Trên bàn có sẵn đồ nhắm (chả giò, chả cua, cá viên chiên, v.v...) và mười chai bia. Trúng mánh!

Hên là sau vài lời giới thiệu ngắn ngủi gì đó là màn trình diễn áo dài Việt Nam và sắc phục phụ nữ thiểu số - Cầm, Dao, Thái, Mông, Mèo.

Ngồi chung với mấy thằng bạn nơi đất khách, miệng uống bia, nhai đồ nhắm chùa, mắt nhìn người mẫu áo dài thướt tha, cà nhõng qua lại trước mặt, tai nghe nhạc nền “Những nhịp cầu tre” - thiên đàng hạ giới có thật!

Nếu không đi chung với mấy thằng bạn thì có lẽ tôi phải chạy ra khu Geylang sớm! (Ai có ở và rành Singapore thì biết tôi đang nói gì).

Màn trình diễn quá đẹp, quá hay, phong cách phục vụ chu đáo, lịch sự - mỗi lần tôi xin thêm bia hay đồ nhắm, họ đều vui vẻ đem tới.

Chỉ tiếc là chương trình khá ngắn! Nếu kéo dài bốn năm tiếng như chương trình Paris by Night thì chúng tôi sẽ không tốn tiền uống bia tăng hai ở mấy quán rượu trên đường Orchard.

Cuối chương trình, tôi hỏi xin lên sân khấu chụp hình chung với mấy người mẫu.

-Các anh cứ tự nhiên.
Và như người Hà Nội, tôi với hai thằng bạn Mỹ trắng leo lên chụp hình chung với mấy người mẫu. Còn hai thằng Mỹ vàng (Hùng và Li) có thể do có chiều cao khiêm tốn nên không chịu lên đứng gần mấy người mẫu.

Khi ra về chúng tôi còn được tặng năm cái nón lá.
Trong lúc đứng chờ taxi, tôi nói chuyện với mấy người nói giọng Bắc nọ thì họ cho biết đó là đêm tập dượt nên không có mời khách dự.
 
Hú hồn! Quậy nhưng không run! Stirred, not shaken!
 
Nhìn gái trong lúc uống bia rất có hại, tới bây giờ tôi vẫn không biết thằng Hùng làm công việc gì trong tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Singapore.
CCC
3/2020
 

Cuộc đời sắc sắc không không,

Thôi thì ta hãy hết lòng với nhau.

Cánh Chuồn Chuồn

Memorial Day 2021

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lời Phi Lộ: Xin ai đó khi đọc tựa đề “Chết Tại Buôn Mê Thuộc” đừng có vội nghĩ ngay rằng tôi đang viết về” Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975” của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Không, đây là câu chuyện hoàn toàn khác hẳn và xảy ra tại Mỹ vào những tháng đẩu năm 1997 đến năm 2000 và câu chuyện được bắt đầu như sau:
Trời tối đen như mực, tiếng mang tác, tiếng hổ gầm từ đại ngàn vọng về xen vào bản hợp tấu bất tận của lũ ếch nhái côn trùng quanh con suối Hầm Hô.
Vừa vói tay muốn lấy cuốn sách đọc dỡ dang tối hôm qua để đọc tiếp, nhưng Phượng-Quỳnh vội dừng tay; vì nghe điện thoại reng. Phượng-Quỳnh vội chụp ống nghe, bước nhanh sang chiếc xa-lông nhỏ; vì ngại tiếng nói chuyện sẽ làm mất giấc ngủ của đứa cháu cưng.
Bây giờ là mùa xuân, chỉ sau Tết mới tròm trèm mươi ngày, nghĩa là khí dương đang mạnh và mọi thứ đang sinh sôi nảy nở. Nàng nhớ da diết vườn cải hoa vàng nơi góc quê. Cái màu vàng miên man như một dòng ánh sáng dắt con người lùi dần vào một nơi chốn nào đó khuất lấp và sáng dịu, một thứ ánh sáng đã bị bọc kín bởi hoài niệm, xa xôi sương mù.
Nằm trong lòng Nhân, Ngân cuộn tròn như chú mèo con, mặt dụi vào ngực để tìm hơi ấm và ngửi mùi thân thể người yêu. Mặt trời lên cao, ánh sáng xuyên qua khung cữa kiếng lớn của căn phòng, không còn ngủ nữa nhưng cả hai luyến tiếc mộng đẹp nên chưa muốn dậy.
Người thì bảo “Chiến Tranh Việt Nam” là cuộc nội chiến Bắc Nam, kẻ thì bảo đó là cuộc chiến chống xâm lăng, chống lại các đế quốc Cộng sản và Tư bản. Riêng tôi, là một bác sĩ phẫu thuật, tôi biết Chiến Tranh Việt Nam” đã là thảm họa của quê hương tôi, của dân tộc tôi..
Con Mén đi ngang, mùi hương bông bưởi từ mái tóc tỏa ra thoang thoảng. Thằng Mễn hít lấy hít để, laị lấy tay quạt quạt như muốn gom hương vào mũi, tụi thằng Chí, thằng Ròm… cười ngặt nghẽo làm con Mén thẹn thùng. Con Mén liếc một cái sắc lẻm.
Mau quá anh nhỉ, mới đó đã hai mươi chín năm. Không ngờ đi ăn cưới người cháu vợ ở Cali, gặp lại anh ở phố Bolsa sau gần ba mươi năm.
Tôi không có thói quen viết về những nhân vật nổi tiếng đã qua đời; dù để “dựa hơi” hay là trút tất cả bất bình/phẫn nộ cho những người không thể nào tự biện minh được! Do đó khi hay tin nhà văn Mai Thảo qua đời, tôi chỉ biết âm thầm niệm kinh/cầu nguyện cho linh hồn anh Mai Thảo được về cõi Vĩnh Hằng!
Y Uyên tên thật Nguyễn Văn Uy, sinh năm 1940 tại làng Dục Nội (nay thuộc xã Việt Hùng), huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, Bắc Việt. Là con cả trong gia đình có 9 người em, năm 1954 cùng gia đình di cư vào Nam, cư ngụ tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Học trung học tại các trường Nguyễn Trãi, Chu Văn An (Sài Gòn). Tốt nghiệp trường Quốc gia Sư Phạm Sài Gòn năm 1964, dạy học tại Tuy Hòa, Phú Yên từ 1964 - 1968.
Yasunari Kawabata sinh năm 1899 và mất năm 1972. Gia đình ông sung túc có truyền thống văn hóa cao. Cuộc đời ông nhiều tang tóc. Ông sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ. Lên bảy, ông mất bà nội. Người chị độc nhất cũng qua đời khi ông mới lên chín. Tang tóc làm tuổi thơ ông không bình thường, và phải chăng đã tạo ra nét mất mát bơ vơ trong văn chương ông.
Đây là tựa đề một tác phẩm văn học rất dễ thương của nhà văn Vũ Bằng. Ông bắt đầu viết từ tháng Giêng 1960, tiếp tục viết 1965, và hoàn thành vào khoảng 1970 – 1971. Hơn mười năm cho một quyển sách, có thể là dòng suy tưởng của tác giả bị gián đoạn do công việc mưu sinh, có thể tác giả chưa nắm bắt được sự rung cảm của riêng mình.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.