Hôm nay,  

Mẹ

21/10/202113:33:00(Xem: 3862)

Văn chương Việt Nam vẫn ví von Mẹ qua hình ảnh cánh cò, tôi thì lại thấy mẹ tôi thật là cánh cò, và mẹ đẹp như những câu thơ của Từ Kế Tường:


Mẹ như cánh cò nơi bãi vắng

Tôi lênh đênh chẳng khác dòng sông

Cánh cò đẫm mùi bùn thầm lặng

Cả một đời mẹ mãi long đong

(Mẹ và Cánh Cò – Từ Kế Tường)


Trong mỗi mái nhà ở quê tôi, ai ai cũng có một cánh cò thương khó, dù anh là anh bộ đội hay anh lính cộng hoà. Cánh cò của tôi, giờ đây tuy đã cách xa quê hương hàng đại dương vẫn chẳng hề đổi thay - vẫn cái áo bà ba màu nâu xẫm, vẫn chiếc nón lá lấp lánh trong nắng trưa phố Bolsa, … Và dưới cái nón lá ấy, trong bộ bà ba ấy, tâm hồn mẹ là cả một quê hương.

blank


Mẹ yêu quê hương tự nhiên như mây yêu bầu trời, như cây yêu rừng xanh. Tình yêu ấy không bị vướng mắc vào chủ nghĩa này, chính kiến nọ. Thời còn là thiếu nữ làng Mai Sơn môi hồng má thắm, mẹ từng theo Việt Minh đi hát dân công. Đêm đêm, mẹ cùng các thiếu nữ trong làng đi đến các đồn Tây. Công tác của các cô là hát hò, hát ví, hay dùng loa cầm tay kêu gọi những người đi lính Tây buông súng trở về với xóm làng. Mỗi khi lính trong đồn bắn ra hàng loạt đạn, các cô lại nằm thụp xuống bờ ruộng để tránh, và cứ thế họ hát cho đến nửa đêm mới về nhà.


Thời cách mạng thành công, rồi Cải Cách Ruộng Đất, chính mẹ cũng lại cùng một số gia đình trong làng nuôi dấu những vị linh mục đối kháng. Mẹ tôi là một phật tử thuần thành nhưng bà hay nói về các linh mục ấy với một lòng tôn kính. Ngày ấy, một linh mục bị cộng sản truy bắt đã được dấu trên căn gác xép của nhà mẹ tôi. Theo lời bà, ngài được luân chuyển hết từ nhà này đến nhà khác trong vùng. Cứ sáng sáng, mẹ lại đem một rổ tro bếp lên cho ngài đi vệ sinh. Cho đến một hôm, khi ngài vừa rời khỏi thì cộng sản ập vào nhà mẹ. Sau này, tôi cứ tiếc mãi rằng đến khi tôi đủ quan tâm để tìm biết tên vị linh mục kia thì những mảng ký ức trong đầu mẹ đã bị xoá. Mẹ đã mang chứng bệnh mất trí nhớ “alzheimer”.


Kể câu chuyện trên, tôi muốn nói với bạn đọc về những bà mẹ quê tôi. Mẹ có thể ít học, có thể không biết gì về chính trị, khoa học, … nhưng mẹ không ngại hiểm nguy khi phải đứng cùng lẽ phải, khi phải  hy sinh cho những điều lớn lao hơn mình. Và tính cách ấy được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ thế hệ của bà, của cụ cố chúng tôi.


Ở đất nước tôi, ai ai cũng được nuôi lớn lên bằng lời ru của mẹ. Tiếng ru của mẹ thấm vào mạch máu, tiếng à ơi những đêm sâu như còn đọng mãi trong ký ức. Chiến tranh ở đâu đó, nhưng nó đâu có át được tiếng kẽo kẹt êm đềm, tiếng võng mẹ đưa những trưa vắng và những câu ru.  Ơi! những câu ru:


Cái ngủ mày ngủ cho lâu

Mẹ mày đi cấy đồng sâu chưa về

Bắt được con bống con trê

Nắm cổ lôi về cho cái ngủ ăn


Cái ngủ ăn, cái ngủ chóng lớn, cái ngủ yêu con bống con trê, yêu bờ ruộng, yêu mảnh đất quê nghèo thấm đẫm câu ru của mẹ. Mẹ yêu con và dạy con yêu đất nước mình. Đất chẳng là gì cả, người ta sẽ bỏ đất ra đi, nhưng khi mẹ làm chốn ấy trở thành đất mẹ thì tất cả hóa linh hồn. 


Rồi con lớn lên, con đi theo lời gọi của núi sông. Mẹ hướng mắt theo con, con ra đi và sẽ trở về khi đất mẹ yên bình. Người bộ đội mơ một ngày hoà bình cho mẹ hết khổ, cho đường quê hương nở đầy hoa. Nhưng tất cả chỉ là giấc mộng, hoà bình rồi oan khuất vẫn cứ trùng trùng trên đất mẹ.


Người lính miền nam mơ ngày trở về, mẹ đón anh trên cánh đồng lúa vàng với tiếng sáo diều vi vu thay tiếng đạn bom. Nhưng ngày ấy không tới, rồi mẹ lưu vong ôm mãi giấc mơ hồi hương! Mẹ tôi hay bảo: vì chiến tranh loạn lạc mà tới đây, mai kia không còn cộng sản nữa thì mình về quê mình chứ con. Không ai muốn chia lìa, không ai bỏ quê mình ra đi vì nghèo khó”


Mỗi 30 tháng 4, khi cờ vàng bay rực phố là đôi mắt mẹ tôi ánh lên một niềm tự hào. Câu mẹ nói hơn bốn mươi năm trước, giờ ở tuổi chín mươi mẹ vẫn nói: “con thấy không, người Việt mình giỏi lắm đi đến đâu là cờ rợp phố, đi đâu cũng nhìn thấy Việt Nam”. 


Mẹ chẳng thiết đi du lịch, chẳng thiết đi đâu chơi, chỉ thích đi họp cộng đồng hay đi biểu tình. Ngày ca nhạc sĩ Việt Dũng còn sống, trong một buổi họp cộng đồng, anh hô to khẩu hiệu cổ vũ  xoá bỏ điều 4 hiến pháp. Mẹ chưa bước khỏi xe, chưa kịp cầm gậy đã hô to “xoá bỏ, xoá bỏ, xoá bỏ …” Giờ anh đã đi lâu rồi, biết bao nước trôi qua cầu, bao người trẻ tuổi đã rời bỏ cuộc đời này mà mẹ vẫn còn đây với mái tóc bạc trắng thời gian.


Chẳng biết ai là người đầu tiên đã ví von mẹ qua hình ảnh cánh cò. Nhưng con cò sao mà giống mẹ tôi quá vậy? lúc nào cũng một mình. Cái hình ảnh con cò một mình nơi ao nông, cái hình ảnh mẹ tôi một mình với đàn con qua chiến tranh - mẹ cõng con chạy giặc; mẹ gánh gồng con trên đôi quang gánh; mẹ lầm rầm đọc kinh trong hầm bao cát khi những trái hoả châu sáng rực ngoài trời, … Chiến tranh là thế! Gian nan là thế! Nhưng nó đâu có làm mẹ quên mất quê hương. Ngược lại là khác, mẹ vẫn nhớ từng gốc cây bờ ruộng, từng con rạch bờ đê. Mẹ thường bảo mai này khi tôi có dịp về đất bắc, hãy tìm lại cho mẹ cây sung ngày xưa, cây sung mẹ vẫn leo trèo thời con gái. Cây sung nay đã ngả dài bên bờ ao, con nước ngày xưa hẳn còn in dấu hình ảnh xinh đẹp của cô Tấm ngày nào. 


Ai đã làm cho quê hương không còn là đất mẹ, cho người Việt tiếp tục dứt áo ra đi, và để mẹ tôi cứ mơ mãi giấc mơ được trở về quê mình. Bốn mươi năm, mẹ mang quê hương đến xứ người; giờ tóc mẹ đổi màu, tình yêu đó vẫn chẳng đổi thay. Mẹ nói hết cộng sản thì mình về quê mình, nhưng quê mình đâu còn cộng sản nữa mẹ ơi! Chỉ cái tên thôi.


Mẹ tôi đã ở vào cái tuổi chín mươi. Bao giờ ước mơ của mẹ trở thành sự thật? Bao giờ cho quê mình dẹp được cái ác? Bao giờ, bao giờ con đưa được mẹ về? Ơi! cánh cò của tôi.


Ai cũng có sông quê, đường cỏ

Thương cánh cò lận đận quanh năm

Mỗi mùa thu vàng thêm sắc lá

Tóc mẹ rơi mây trắng âm thầm

(Mẹ và Cánh Cò – Từ Kế Tường)


Nguyệt Quỳnh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hầu như người Việt nào cũng biết câu, “nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Tuổi thọ ngày xưa thật đúng là khó có người sống qua bảy mươi tuổi vì điều kiện sống, chế độ dinh dưỡng, chăm sóc y tế còn hạn chế, là chưa nói tới tâm lý người lớn tuổi được sống vui với con cháu, xóm làng, hay tuổi già neo đơn vì hoàn cảnh cũng tác động nhiều đến tuổi thọ. Ngày xưa, người sáu mươi tuổi đã được con cháu mừng thọ dịp sinh nhật thứ sáu mươi. Ai tới bảy mươi là con cháu mừng ông (bà) đại thọ. Hiếm hoi có người sống tới tám mươi thì con cháu mừng thượng thọ. Qua tám mươi cũng có nhưng rất hiếm vì bảy mươi đã được coi là hiếm hoi - cổ lai hy. Nhưng nay đời sống sung túc hơn, hiện đại hơn, và y học tiến bộ hơn nên những lão ông, lão bà bảy mươi bây giờ còn khoẻ re vì họ còn có thể vui chơi, du lịch, tham gia sinh hoạt xã hội, cộng đồng… bệnh tật của họ có bác sĩ chăm sóc với y khoa hiện đại. Đời sống tinh thần vui hay không cũng tùy người, tùy suy nghĩ cá nhân vì người thấy nhà vắng con cháu thì buồn, tr
Hè năm ấy tôi dấn thân vào một việc mà kể từ nhỏ tới lớn tôi chưa từng làm. Dĩ nhiên là không có tý kinh nghiệm nào và vô cùng mạo hiểm. Nhưng người xưa có câu “đói thì đầu gối cũng phải bò”. Thôi kệ phải liều, biết đâu “không thành công, cũng thành nhân”. Sống là trải nghiệm mà...
Mỗi lần đi mua quà cho ai đó, kể cả quà Giáng Sinh, tôi thường bị tẩu hoả nhập ma, có khi đi cả buổi chẳng mua được gì. Chọn quà tân gia càng khó hơn, tôi đi hết tiệm này qua tiệm khác, suy nghĩ về “gia chủ” để đoán xem họ thích quà loại nào, cuối cùng tôi cũng phải chọn một món khi trời đã quá trưa...
Có nhiều lý do để tôi không thích và thường tránh né khi phải lái xe vào khu trung tâm thành phố. Một trong lý do chính là hầu hết các con đường trong trung tâm thành phố trên toàn nước Mỹ đều là đường một chiều...
Có một Ông Già Noel như thế, mang họ Nguyễn trên đất nước Hoa Kỳ này. Không rõ tôi gọi như thế có bị xem là sai phạm luật đạo gì không, vì tôi không phải tín đồ Công Giáo, nên những so sánh văn chương có thể không thích nghi với luật đạo. Nhưng, nếu gọi Ông Già Noel là người mang những món quà yêu thương tới cho những người tội nghiệp trên trần gian này, thì ông cụ họ Nguyễn đó còn mệt nhọc hơn nữa, vì trong hơn hai thập niên, ngày nào cũng là ngày để ông tặng quà yêu thương, nghĩa là, ngày nào ông cũng thấy là ngày Lễ Giáng Sinh và ông hóa thân ra thành 365 Ông Già Noel để bận rộn trọn năm (Đúng ra, nên trừ các ngày cuối tuần mới chính xác, nhưng như thế là chẳng văn chương gì cả).
Mùa Đông năm 1975 gia đình tôi dự Lễ Giáng Sinh đầu tiên trên đất Mỹ. Tôi nhớ rất rõ đêm Giáng Sinh đó, hình ảnh đó cho đến ngày hôm nay, gần 50 năm sau vẫn hiện ra rõ rệt...
Năm 1954 và 2024 là hai năm đánh dấu 70 năm ngày đất nước chia đôi, dòng sông Bến Hải đã làm biên giới giữa hai miền. Miền Bắc thuộc về Cộng Sản, miền Nam là vùng Quốc Gia tự do...
Ông già đi vào phòng ngủ. Hai cái gối ở đầu giường ngểnh cổ nhìn ông. Ông nheo mắt nhìn lại chúng nó. Hình như cái gối của ông còn nhoẻn miệng cười. Còn cái gối của vợ ông thì nheo một con mắt, cái kiểu đá lông nheo của cô gái nghịch ngợm. Ông khẽ lắc đầu. Và ông nhắm chặt hai mắt. Loay hoay một hồi, ông ra phòng khách, nhìn trước nhìn sau. Cái ti vi dán vào vách tường nhìn ông dò hỏi. Ban nãy ông đã tắt tiếng, chỉ để hình nên ông không hiểu nó muốn nói gì.
Tôi thích hai chữ “Xóm Đạo” để chỉ một khu dân cư gồm toàn những người theo Ki Tô giáo sống chung, sinh hoạt với nhau chung một niềm tin. Xóm Đạo không nằm giữa lòng đô thị, không phố xá nhà cao cửa rộng, không có tiếng xe cộ ồn ào, không có đường lớn, không chợ búa đồ sộ bán buôn tấp nập…
Thập niên 50 thế kỷ trước, ở quê tôi không hề thấy những Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo, chỉ rải rác vài chùa Phật giáo, đa số là các Thánh thất Cao Đài ở nhiều xã trong quận. Những năm học tiểu học, 1956-61, mỗi năm đi học được nghỉ lễ “Bấc” một tuần, cứ ngỡ là gió bấc...
Không hiểu sao Ông Già Noel lại đọc được tất cả thư của trẻ em trên khắp thế giới! Vậy Ông là ai? Ông có thật hay không? Nhà của Ông ở đâu? Đó là những câu hỏi quá quen thuộc mà các bé vẫn đặt ra, làm cha mẹ của các bé khó trả lời, có chăng là những câu trả lời để tránh làm các bé thất vọng...
Nhà vẫn đơn côi bên bờ sông. Gió về mở hội từng đêm. Đom đóm về thắp đèn. Ánh sáng lập lòe dọi qua cánh màn mỏng ngả màu vàng như quả dưa gang. Mẹ Thời ngồi đó trông ra, chiếc quạt để đầu giường. Bà lấy tay xua xua những con muỗi. Thằng Đắc đã viết gì về chưa con? Chưa mẹ ạ, có gì con sẽ báo. Mà mẹ cũng đừng nghĩ ngợi nữa, tuổi này ta sống thế này có phải vui không? Sau tiếng vui, Thời huýt một đoạn sáo gợi lên những ca từ dí dỏm lắm trong một bài hát, tiếng sáo đi xa tận ngõ, nghe được cả tiếng cá đớp ở con lạch cạnh bờ sân chạy vào. Mẹ Thời thở mạnh một cái, nó buồn hay vui bà đâu biết.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.