Hôm nay,  

Mộng

13/11/202118:33:00(Xem: 3700)

 


 Con tàu xình xịch chạy trong màn đêm đen kịt, tiếng rít ken két của bánh xe sắt nghe chói lói màng nhĩ, cái âm thanh kìn kịt hòa với độ lắc lư đều đều làm cho con người ta bồng bềnh trong cơn ngái ngủ. Trong toa tàu người và đồ đạc lèn chặt như nêm, hàng hóa chất kín mọi lối đi, tận dụng từng khoảng trống dù là nhỏ nhoi nhất. Mùi hơi người chua chua pha với khét lẹt, mùi thum thủm từ những bộ áo quần dơ bẩn bốc lên muốn nghẹt cả mũi, đã thế khói dầu của đầu máy theo gió tạt vào càng làm tăng thêm mức độ ngột ngạt. Ở khúc trong còn dễ chịu hơn một chút, những chỗ hai đầu toa xe càng kinh khủng hơn, mùi khai nồng nặc của nước tiểu, mùi hôi thối của khách đi tàu phóng uế lưu cửu lâu năm… tra tấn lỗ mũi những người gần đó. Tuy nhiên ở chỗ hai đầu toa xe lại là nơi an thân và dễ né tránh nhất cho những người đi tàu lậu vé như An. 

 Từ quê lên Sài Gòn học, ba mẹ vét hết tiền nhà, bán cả tấn thóc mà cũng chỉ đủ đóng học phí nửa năm, lấy đâu ra tiền để mua vé tàu? Đã thế nhiều người có tiền cũng không thể nào mua được vé chính thức, toàn phải mua chợ đen thôi, nhân viên phòng vé tuồn hết ra ngoài cho bọn cò rồi. Lần đầu theo thằng Tân nhảy tàu,  An sợ run cả người, cứ lơ ngơ sợ bị người ta đuổi xuống giữa đường, sợ bị nhân viên trên tàu bắt phạt… Khi thấy tay kiểm soát vé đến, thằng Tân lủi mất tiêu. An bị anh ta chửi như tát nước vào mặt:

- Địt mẹ quân bố láo, mày không có vé mà dám lên tàu à? Tàu của nhà nước cứ gặp hạng khách như mày thì có mà phá sản!

An tái xanh tái xám mặt mày, hạ mình run rẩy năn nỉ hết lời nhưng tay kiểm soát vé vẫn không tha. Y dọa:

- Tới ga gần nhất ông sẽ tống cổ mày xuống, bằng không mày phải nộp phạt tính từ ga đầu đến ga cuối!

An thất kinh, kiểu này thì chết, tiền đâu mà phạt? Nếu không bị đuổi xuống giữa đường thì biết làm sao đây? Trong lòng An bấn loạn, nước mắt muốn trào ra. Tay kiểm soát vé vốn ranh ma xảo quyệt, y sống bằng nghề này đã bao nhiêu năm, gặp biết bao người như An. Y dọa thế để kiếm ăn thôi, cứ mỗi chuyến tàu ra vô y kiếm được số tiền bằng cả mấy tháng lương. Nhìn An rúm ró sợ sệt, y cười đểu:

- Mày từ quê lên sài Gòn học, vậy mang theo bao nhiêu tiền?

- Dạ, ba mẹ bán cả tấn lúa chỉ đủ đóng học phí nửa năm thôi.

- Mày đừng láo, vậy mầy lấy tiền đâu ăn ở? Đất Sài Gòn không phải như mảnh ruộng quê mày.

- Dạ, em cũng chưa biết tính sao, có lẽ em sẽ tìm việc vừa học vừa làm.

- Mày đi không vé, vậy giờ mày tính sao?

- Dạ, anh thông cảm, em biết sai nhưng không còn đường nào khác.

- Thông cảm cho mày thì ai thông cảm cho tao? Tao còn phải chi cho trưởng tàu, gác cửa nhà ga và nhiều chỗ khác nữa.

- Dạ, em thật sự hổng có tiền, nhà em làm ruộng nghèo lắm.

 Y không nói năng gì thêm, bất thần thọc tay vào túi quần An, vét sạch mấy ngàn mà mẹ an dúi cho để ăn uống dọc đường. May mà tiền học phí mẹ An đã cẩn thận may cái túi nhỏ ghim vào phía trong quần dài. Tay kiểm soát vé bỏ đi còn quăng lại câu khinh khỉnh.

- Gặp khách như mày ông có mà đói!

 Thế là lần đầu nhảy tàu cũng đến được ga Sài Gòn, tuy nhiên nó đã để lại trong tâm tư An một dấu ấn không phai mờ, vừa tủi phận nghèo, vừa nhục vì những lời mạt sát, vừa pha nỗi xấu hổ… Những lần nhảy tàu sau thì An cũng không còn quá sợ hay mắc cỡ nữa, nhiều bạn bè lên sài Gòn học cũng nhảy tàu cả thôi. Cái nghèo nó hành hạ thì cái khó ló cái khôn, nếu mà sĩ diện thì làm sao lên Sài Gòn học được bây giờ? Biết nhảy tàu là sai, là nguy hiểm nhưng không còn cách lựa chọn nào khác. Đời dạy An nhiều bài học, dần dần An không còn dễ xúc động hay dễ bị bắt nạt nữa. Những lần nhảy tàu sau,  An cũng lanh lẹ như thằng Tân, chấp nhận ngửi mùi xú uế và nguy hiểm ở hai đầu toa xe. Hễ thấy bóng kiểm soát vé bên này thì dọt lẹ qua bên kia và ngược lại. 

 Đêm càng về khuya, khí trời lành lạnh xông vào con tàu, tiếng xình xịch ru An vào giấc ngủ, những âm thanh ồn ào nhốn nháo cũng không nhằm nhò gì với sức sức vóc trai trẻ mới lớn. An có thể ngủ nằm, ngồi bất cứ chỗ nào, hễ buồn ngủ là làm thẳng giấc, có khiêng vứt xuống ao cũng không hay biết huống chi là tiếng xình xịch của con tàu. 

 Ký túc xá trường đại học Tổng Hợp về đêm nhộn nhạo lắm, kẻ đi học về, người đi học thêm tiếng Anh, vi tính, cũng có những người tí tửng đi chơi, vui nhất, máu nhất vẫn là những cuộc nhậu của những sinh viên rảnh rỗi. Phòng 406 đang có trận nhậu tưng bừng. Anh Hưng ôm đàn ghi ta khảy bập bùng, cả đám hò dô cạn ly rồi hát bè theo:

“ ...Năm mười mười lăm hai mươi

   Con sâu lúc lắc em không có dám bắt

   Con chim lí lắc em bắt cho anh coi

   Anh có tè em không, anh có tè em không?…”

Những bài hát chế, dựa theo tông nhạc của các bản nhạc vàng cứ thế bài nối tiếp bài, ca hát vang lừng. Thằng Khải, Toàn, Phú... bè theo tiếng ghi ta bằng những âm thanh gõ ly, chén, nồi, chảo. Tụi con Phượng, con Thúy, con Loan… cười ngặt nghẽo. Con Hạnh chịu chơi hết biết luôn:

“ ...Con sâu ngúc ngoắc em đâu muốn bắt

   Con chim nhí nhắt em bắt cho anh coi 

   Anh có tè em không, anh có tè em không?...”

 Thằng Khải cà khịa:

- Em dám bắt hôn?

- Sợ gì mà hổng dám!

 Cả đám cười như chưa chưa bao giờ được cười, tranh nhau nói om sòm cả căn phòng. Thằng Phương nổi tiếng tửu lượng cao nhất bọn, càng uống càng tỉnh. Nó vốn đẹp trai trắng trẻo, uống rượu vào càng hồng hào đẹp trai hơn. Bọn con gái đứa nào cũng thích nó. Nó cặp bồ với con Thanh, hai đứa cũng xứng đôi vừa lứa, hai đứa rất mặn nồng tình tứ, những tưởng dài lâu, nào ngờ chẳng mấy chốc chia tay. Nhiều bọn trong phòng gặng hỏi tại sao nhưng cả hai đều nín thinh. Những ngày sau cả phòng 406 của nữ sinh và phòng 903 của nam sinh rỉ tai nhau:

“Con Thanh chia tay thằng Phương và gởi nó lá thư, trong đó có câu: Chúng ta hết duyên nhưng còn nợ “. Thằng Phương đem lá thư ra cho cả phòng nam đọc chơi, thật tình nó có mượn con Thanh một món tiền nhưng chưa trả. 

 Cuộc nhậu đã đời với món khô đuối với rượu Bầu Đá mà thằng An mang từ quê vô. Cái thứ rượu vẫn đồn đại xưa nay quả là danh bất hư truyền, rượu vào miệng rồi, chảy đến đâu là cảm nhận đến đấy, từng tế bào từ miệng cho đến dạ dày đều bốc lửa, mùi thơm men gạo nhè nhẹ nhưng làm lâng lâng. Kẻ nào yếu quất một ly là hỏa bốc lên đầu, trào nước mắt ngay, bởi vậy mà dân nhậu cho nó cái tên mỹ miều là “Nước mắt quê hương”. Đã mấy năm thành lệ, hễ thằng An từ quê vào, có thể không có tiền đóng chỗ ở, thiếu gạo ăn nhưng không bao giờ thiếu khô đuối và rượu Bầu Đá. Thằng Khải tuyên bố một câu xanh rờn:

- Mầy dìa quê dô mà hổng có hai món đó là tụi tao tống cổ mày ra khỏi phòng 902 ngay lập tức!

 Những bợm nhậu sinh viên tuy nghèo nhưng nhậu quốc lủi riết cũng rành, tụi nó nói ngay cả đế Gò Đen cũng không bằng, những thứ rượu khác thì càng không thể so sánh được, duy có rượu tây thì không bàn đến, cái khoản này thì sinh viên không có cửa, ăn còn chưa đủ no thì lấy đâu ra rượu tây để mà so.

 Nghỉ hè xong, An lại trở vô, ngay buổi tối hôm ấy gầy độ nhậu, cả phòng mừng gặp lại nhau, nhậu tưng tưng gần cạn bình Bầu Đá, thằng Hưng bỗng dưng ngậm ngùi:

- Anh em mình mấy năm nay sống chết có nhau, giờ gần ngày ra trường rồi, mai đây liệu ai có còn nhớ những ngày ký túc xá? Có đứa sẽ thành ông nọ bà kia nhưng cũng sẽ có người long đong lận đận, số phận mỗi người mỗi khác, đâu ai biết trước được ngày sau, mong sao anh em sau này còn nhớ đến nhau!

 Bốn năm đại học qua cái vèo, ngày tốt nghiệp An và thằng Vân bị giam bằng vì còn nợ điểm một vài môn: Tư tưởng HCM, Duy vật biện chứng… phải ba tháng sau mới được đóng tiền để thi lại, sau đó người ta mới phát bằng đại học. Những cái môn ấy quả là ác mộng với sinh viên, nếu những môn chuyên ngành giỏi bao nhiêu thì những môn ấy lại tệ bấy nhiêu. Có ai muốn học đâu, ngặt một nỗi bị buộc phải học, không học thì không ra trường được, mà càng học những môn ấy thì càng ngu, chỉ tổ tốn thời gian, tốn tiền bạc mà thôi. Hễ hôm nào có giờ của môn ấy thì An và cả đám lủi ra quán cà phê cóc ở vỉa hè ngồi đồng, những bạn khác có vô lớp thì ngủ, ngáp hoặc làm việc riêng, mặc cho khứa lão gỉang viên thao thao bất tuyệt, tha hồ nói hưu nói vượn.



 Sau khi ra trường, những thành viên của hai phòng kết nghĩa 406 và 902 tản mát bốn phương trời. Thằng Hoàng về lại cao nguyên ngàn thông của nó. Thằng Lộc dìa miền tây sông nước. Thằng Dĩ, thằng Khải bám trụ lại Sài Gòn. An thì về với khúc ruột miền trung, nhờ người quen chạy chọt nên cũng xin được chân kế toán trong một công ty khai thác đá granite. Không biết phước phần đến hồi trổ quả hay mả tổ phát mà An đổi đời một cách nhanh chóng đến không ngờ. Khi An vào công ty chỉ là tay kế toán quèn vậy mà vài năm sau được cất nhắc làm phó giám đốc. Thời may lại đến, giám đốc về hưu An được bổ nhiệm thay. An cho mở thêm vài chi nhánh nữa và nghiễm nhiên trở thành tổng giám đốc công ty khai thác và xuất khẩu đá granite. Một lần nữa bà linh hiển phò hộ, bấy giờ phong trào cổ phần hóa dâng cao. An lập tức phù phép toàn bộ tài sản công thành tài sản riêng, anh em nhà An đều trở thành những cổ đông chính của công ty, mặc dù chẳng bỏ ra một xu nào nhưng lại có trong tay hàng chục triệu cổ phần, cổ phiếu. Không biết với những chiêu gì nữa và moi đâu ra tiền mà mấy năm liền An nằm trong danh sách hai trăm người giàu nhất Việt Nam. Ngày xưa đi học, mấy anh em An không có một cái xe đạp tàng để đi, giờ thì May bach, Fan tom, Audi, Bentley… cả chục chiếc, mỗi chiếc bằng cả vài trăm năm lương của một công nhân, tài xế riêng hai người thay ca túc trực hai mươi bốn giờ. Tất nhiên AN không thể hưởng lộc một mình được, lộc chia cho các quan từ địa phương đến trung ương, không chỉ hiện vật, hiện kim mà còn hàng trăm ngàn cổ phiếu nữa, thời đại chứng khoán thì biếu cổ phiếu là khôn ngoan và an toàn cho cả hai bên. Ngày đi học An nhậu khô đuối với Bầu Đá, giờ những thứ quê mùa ấy đã biến mất từ lâu khỏi danh mục của An và các quan. Mỗi bữa nhậu của An đáng giá bằng vài năm lương của một người thợ là chuyện thường, không chỉ nhậu tăng một mà còn có những trận vui tăng hai, tăng ba với tất cả những trò chơi mà người ta có thể tưởng tượng ra. Bọn tư bản phương tây có thể gìau hơn nhưng có lẽ chưa bao giờ biết đến những trò chơi của An và các bạn quan của An.

 Tài sản, tiền bạc của An và anh em An ngày càng tăng cao, phình to thì những ngọn núi quanh vùng bị bào mòn đi, bị xẻ nát tươm, bị thuốc nổ phá tan hoang. Mỗi khi mưa xuống, nước chảy thành dòng xé toạc sườn núi, những dòng nước đỏ lòm như máu từ núi chảy xuống. Ruộng đồng quanh vùng bị đá dăm làm hư hoại hoàn toàn không thể cấy trồng chi được. Xe tải hạng nặng cày nát đường hương thôn, trời nắng bụi mù mịt, trời mưa sình lầy lún đến gối. Dân kêu trời như bộng, báo đài có nó vài lần nhưng cũng chẳng tới đâu.

 Một ngày cuối tuần,  An với mấy phóng viên của tờ báo địa phương nhậu ở nhà hàng Hoa Biển, một nhà hàng lớn có số má nhất ở tỉnh nhà, dĩ nhiên rượu tây và sơn hào hải vị là chuyện nhỏ. Cuộc nhậu tưng bừng, em út nâng ly tới tấp, những tiếp viên quen thuộc và người mới đều được bo rất hậu hĩnh. Giữa cuộc nhậu, An thảy ra bàn một bao thơ dày cộm và tâm tình:

- Ai làm việc nấy, nhưng các anh đã làm ảnh hưởng không tốt đến việc của tôi, đây là chút quà hữu nghị anh em. Hy vọng các anh biết mình nên làm gì! Các anh cũng biết đấy, ông bà ta ngày xưa dạy:” Rừng nào cọp nấy”, còn thời đại hôm nay thì chúng ta cũng có câu:” cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng nhiều tiền” cổ kim đều hay và chí phải, phải không mấy anh em?

 Bàn nhậu lặng yên, không khí chùng xuống một tí, cánh phóng viên cũng hơi ngượng ngùng. An lập tức búng ngón tay cái tách, mấy cô đào mơn mởn từ đâu ùa ra bá vai ôm ấp mấy tay nhà báo. Cuộc vui lại sôi nổi và hào hứng, tiếng cụng ly leng keng, tiếng hô dô dô đầy khí thế, mấy cô đào đều là những tay tửu lượng đáng nể, bọn họ tập dượt rất kỹ để điều ra phục vụ những khách VIP của nhà hàng. Trong những cô đào ấy, Diễm là hàng độc của An, An đã đóng dấu chủ quyền, hễ An cần thì tất cả mọi kế hoạch khác của Diễm và nhà hàng phải hủy bỏ để mà phục vụ An. Những tuần sau đó, báo địa phương và cả những tờ báo lớn đều chạy những bài khen ngợi công ty đá Granite tận mây xanh, nào là: Giám đốc tài giỏi biết cách làm ăn, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, học hỏi giao lưu quốc tế, hàng xuất khẩu chất lượng cao, đời sống công nhân khá giả...” 

Bạn học ngày xưa đọc báo thấy thế cười khẩy. Thằng Khánh mỉa mai:

- Đời sống công nhân khá giả? Đúng là tháng An khá thật nhưng giả cũng cao tay.

Thằng Phương vẫn thường nói chuyện qua điện thoại với thằng Tân:

- Thằng An giờ là đại gia, ngày xưa uống toàn Bầu Đá, nay với nó thì đến Chivas cũng là đồ bỏ, nó uống những chai cỡ cả ngàn đô là chuyện thường.

 Cả đám bạn phục lăn kể cả ngã ngửa ra, không ngờ thằng An phất nhanh, phất mạnh đến như thế. Nhiều đứa vẫn cứ lấy chuyện ngày xưa ra kể:” Hồi đó ba má thằng An có mấy sào ruộng, nuôi mấy anh em nó thiếu thốn trăm bề, vậy mà sao giờ giàu dữ vậy? Mà đâu chỉ mỗi mình nó, anh em cả nhà nó đều như thế cả, nó vực cả nhà nó lên ngôi đỏ từ vũng bùn đen”. Tụi con Vân, Thanh, Thúy… dường như có vẻ ước ao lẫn chút ghen tị:

- Vợ thằng An có số hưởng, cô ta chẳng làm gì cả, suốt ngày tô điểm, đi lòng vòng và đón con mà thôi!

 An giàu có nhất tỉnh nhà, thế lực bảo kê cũng vào loại thế lực bậc nhất. An như ông vua không ngai ở vùng này.

 Sự đời đôi khi vượt qua sự hiểu biết của con người, nó chẳng đi theo quy luật nào cả, thậm chí nó có những ngã rẽ đến không ngờ. Một ngày kia gió đổi chiều, những thế lực đối nghịch ở triều đình thắng thế và nắm được những cái ghế quyền lực nhất. Quan chủ tỉnh thuộc phe cựu bị cho về nhà đuổi gà giúp vợ, tuy nhiên được hưởng đặc ân:” Miễn truy cứu trách nhiệm”. Dân chúng cười:” Hạ cánh an toàn”. Riêng đám tay chân thủ hạ thì bị đánh te tua, nặng nhất là An, tài sản bị tịch thu, những chiếc xe sang bị sung công quỹ, tài khoản công khai bị đóng băng, bị kết tội tham ô tài sản công, hối lộ công quyền, phá hoại môi trường sinh thái, vi phạm đạo đức lối sống cán bộ… 

 An ngồi tù, một hôm bỗng nhiên cười sằng sặc rồi lại khóc hu hu. Bạn tù ngỡ An bị căng thẳng thần kinh, có kẻ lại gần an ủi thì nghe An lẩm bẩm:

- Giá giờ có nậm Bầu Đá.

Bạn tù cũng đều là những kẻ có thế lực, có tiền bạc nhưng ngã ngựa, nói chung là cùng hội cùng thuyền với An. Trong đám ấy có người bảo:

- Rượu Bầu Đá tuy dân dã quê mùa nhưng lại lành. Rượu tây thơm và mắc tiền nhưng nhức đầu và đau mình lắm! 

 An trằn trọc mãi không ngủ được, phần nhớ lại vàng son vừa bị mất, phần tiếc nuối những ngón ăn chơi, giờ nằm giường tù cứng đau mình… nước mắt tự động chảy ra. Trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê An thấy lại cảnh khóc ngày xưa lúc nhảy tàu lần đầu trong đời. Qua nửa đêm, An ngủ trong mộng mị nặng nề, nghe tiếng còi tàu toe toe, tiếng la ó chói lói của mấy bà gác cổng soát vé, tiếng hành khách gọi nhau í ới… Chợt từ trong tâm thức sâu thăm thẳm, tiếng thằng Tân nhắc vọng về:

- Tàu đến cống Bà Xép sẽ chạy chậm lại để xin lệnh vào ga. Mày phải nhảy xuống thật lẹ rồi ra đường đón xe ôm về ký túc xá. Nếu mầy chậm chân, tàu vào ga thì tụi nó sẽ phạt mày từ ga đầu đến ga cuối đấy!

 An mơ màng mộng mị, hình ảnh ngồi thu lu ở cái xó gần chỗ nối hai đầu toa xe lửa cứ bập bềnh theo nhịp lắc lư của toa tàu. Mùi khai thối khăm khẳm tưởng đã quen nhưng có lúc vẫn buồn nôn muốn ói. Bên ngoài khung cửa sổ, trời vừa lờ mờ sáng, phố xá con im lìm ngái ngủ, những ngọn đèn hai bên đường vẫn còn  tỏa ánh sáng vàng vọt xuống mặt đường. 


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 11/21

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Má Chanh mất rồi, đưa vô bệnh viện bị má khó thở, rồi bà đi rất mau, đi ngay trong phòng khám. Ông nói một hơi rồi lặng lẽ khóc… khóc ấm ức, nghẹn! Cứ nhìn ông già khóc vợ nghẹn lời, mà nhớ lại nhiều lần ông còn như muốn kể lể: Cuộc tình của ba với má Chanh gián đoạn rồi kết nối nhiều lần mà không đáng buồn vì là cuối đời ba vẫn yêu quý má, má vẫn yêu thương ba như ngày đầu mới gặp…
Thật khó mà nói về mình khi bước vào tuổi 90-cái tuổi lớn nhưng không thừa, đôi khi lại thiếu- Ở tuổi 90, sức khỏe xuống cấp, lôi theo sự trì trệ thoái hóa của não bộ, trở nên bảo thủ. Đôi khi lại phấn chấn, một chút quá khích, muốn bước thêm những bước dài nữa thì bị hụt hơi. Ngày xưa hăm hở viết, cứ tưởng mình đắc thủ tư tưởng cổ kim nhiều lắm. Bây giờ ở tuổi 90 lại thích đọc, như tim về nơi trú ẩn, tự an trí mình.
Câu chuyện ngày nay kể về một chuyện ngày xưa, một ngày của thuở hồng hoang loài người; hằng triệu năm trước, khi một mảnh đất trên địa cầu, sau cơn địa chấn, tách ra và trôi dạt về phương Nam, ngày càng xa thẵm và nó trôi đến phía cực Nam của trái đất, dừng lại một nơi chốn tận cùng, rồi một biên giới được dựng lên bởi bức tường Băng Tuyết vĩnh viễn. Trên mảnh đất xa xôi, ngàn năm cô đơn ấy, một loài chim Cánh Cụt ríu rít sống bên nhau, yêu thương che chở nhau cho đến chết vì nhau.
Lúc tôi đậu thanh lọc, được chuyển từ trại “cấm” sang trại tự do, tinh thần vui vẻ, tôi không có ý định tiếp tục công việc ở post office mà muốn thử công việc mới, làm thiện nguyện 3 jobs không hề mệt mỏi . Sáng sớm dạy lớp English Vỡ Lòng cho người lớn tuổi tại trường ESL, sau đó chạy “show” qua trường Việt Ngữ dạy Tiếng Việt cho các em nhỏ, và thời gian còn lại trong ngày làm việc là dành cho Văn Phòng Cao Ủy Định Cư.
Tôi đang đổ xăng, bỗng có người thanh niên tiến đến nên tôi cảnh giác xem anh ta muốn gì? Anh ấy không có thái độ gây hấn hay gì hết, ngược lại là nụ cười xã giao dễ mến và và hành lễ khoanh tay là điều đã hiếm thấy ở giới trẻ Việt trên nước Mỹ bây giờ.
Nhân tuần lễ kỷ niệm 49 ngày Khánh Trường rời cuộc thế gian, tờ Ngôn Ngữ số đặc biệt tháng Hai dành trọn số báo tưởng niệm người họa sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo tài hoa Khánh Trường, do nhà thơ Luân Hoán và bạn hữu nhóm Ngôn Ngữ ưu ái thực hiện. Mời đọc bài viết của Trần Yên Hòa trích nhà phê bình văn học Thụy Khuê như một nén nhang tưởng nhớ người họa sĩ/nhà văn tài hoa.
Có thể nói cuộc đời của những du học sinh thời VNCH như tôi trải qua khá nhiều truân chuyên từ dạo ấy, sau tháng Tư đen 1975, từ khi cộng sản Bắc Việt thống trị Nam Việt Nam. Khác với quyết định đi tìm Tự Do, đi tìm sự sống trên cái chết qua hình thức vượt biên vượt biển của đồng hương sau 1975, chúng tôi may mắn hơn, đơn thuần chỉ phải chọn lựa một trong hai: về Việt Nam hay ở lại nước ngoài. Nếu quyết định về VN thì phải cúi đầu phục tùng nhóm sinh viên đoàn kết và toà đại sứ Việt Cộng. Còn ngược lại nếu quyết định ở lại nước ngoài thì phải chấp nhận xa quê hương, xa gia đình, bạn bè anh em và không biết khi nào mới gặp lại!
Văn hóa phương Tây, rắn vừa là biểu tượng trong lĩnh vực y khoa vừa là nguồn cảm hứng trong hội họa, kiến trúc và văn học. Văn hóa Hy Lạp bắt nguồn từ vị thần cổ đại Hermes, sứ giả của các vị thần. Thần Esculape được coi là ông tổ của ngành y dược. Biểu tượng của Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO (World Health Organization) con rắn quấn quanh cây gậy Esculape cầm. Cục Quân Y VNCH có thêm đôi cánh trên thanh kiếm.
Hồi năm sáu tuổi tôi vẫn hay theo chúng bạn ra chơi trước đình làng Thanh Thủy. Nơi đó có mấy cây sanh cổ thụ rất lớn luôn tỏa bóng râm mát mẻ cả đoạn đường bến chạy qua làng. Bên kia con đường bến là hồ Vọng Nguyệt, một cái hồ trông như vuông vức, rộng chừng nửa mẫu tây, dân địa phương vẫn quen gọi là hồ làng...
Phải chi khách đến thăm vườn hồng hơn trăm giống quý đủ màu sắc của ông Chu hằng ngày là khách mua hoa thì chắc thu nhập của gia đình ông đỡ hơn. Ông nghèo, nhưng cái máu nghệ sĩ của ông lại mạnh mẽ hơn chuyện tiền bạc, lại gặp bà vợ hết mực chiều chồng, nên cứ nghe đâu có giống hồng lạ là bằng mọi cách phải có cho bằng được. Năm ba ký gạo đắp đổi hằng ngày đã khó, mà có những giống người ta đổi cả tấn lúa ông cũng lắc đầu.
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon.
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.