Hôm nay,  

Khánh Trường với tiểu thuyết Nắng Qua Đèo

14/02/202223:16:00(Xem: 5215)
blank

Khánh Trường với

 tiểu thuyết Nắng Qua Đèo

 

Phan Tấn Hải

 

Đôi khi tôi tự hỏi về hành vi viết của chính mình, đặc biệt là viết truyện. Truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, tiểu thuyết, trường thiên, và vân vân. Thực sự, tôi không viết nhiều như thế để rồi phải tự thắc mắc. Nhưng thói quen tự xem xét tâm mình đã dẫn tới các câu hỏi như thế. Dĩ nhiên, có khi vì cần bài cho Báo Xuân. Có khi vì trong lòng có điều muốn nói, nhưng không thể nói thẳng như văn chính luận. Có khi chỉ để cho lòng vui, vì không thể không viết, vì ngồi vào bàn là phải viết. Đôi khi viết vì có lời muốn gửi cho đời sau. Thực sự, bản thân mình không là cái gì để phải nói cho nghiêm trọng. Ngày xưa, các cụ làm thơ có khi vì thấy bút mực có sẵn trên bàn, trước mặt… nếu không viết thì mực sẽ sớm khô, giấy sẽ sớm sầu muộn, và hoa nơi hiên nhà sẽ sớm vàng úa. Và có khi, cầm bút lên viết chỉ vì không nỡ đề thêm buồn đè nặng trên vạt nắng chiều còn vương bên thềm.
 

Hiển nhiên Khánh Trường viết không phải để vinh danh chữ nghĩa, vì hầu hết những người tôi có giao tình thân thiết đều không ưa trầm trọng hóa vấn đề. Chơi thôi mà, như kiểu nhà văn Mai Thảo ưa nói. Trong tiểu thuyết Nắng Qua Đèo của Khánh Trường cũng nhắc mấy câu thơ của Mai Thảo, nói rằng bệnh ở trong thân lâu ngày cũng thành bạn thôi:
 

Bệnh ở trong người thành bệnh bạn

Bênh ở lâu dài thành bệnh thân

Gối tay lên bệnh nằm thanh thản

Thành một đôi ta rất đá vàng

  

À… đó là chuỵện gối tay lên bệnh. Viết cũng là một hành vi gối tay lên chữ, lên mực. Vì tất cả đều trở thành đá vàng cả rồi. Trong phần Mở trước khi vào tiểu thuyết, Khánh Trường viết: "...hai chữ vô thường lại hiển lộng. Đồng thời gợi ý cho tôi khởi đầu những trang chữ này." Tiểu thuyết của Khánh Trường mở đầu bằng hình ảnh nhân vật tên là Nhân, có bệnh nặng, có lúc được chẩn bệnh là ung thư gan. Trang cuối tiểu thuyết là cái chết trên giường bệnh của Nhân, lúc sắp từ trần đã thoáng nhìn thấy hình ảnh một người phụ nữ thân thương năm xưa bước vào, và anh nhắm mắt ra đi. Hiển nhiên không phải là tự truyện, vì tác giả vẫn còn sống, không như nhân vật trong tiểu thuyết. Nhưng, một vài phần, có lẽ vẫn không lìa nhân vật chính.
 

Toàn bộ tiểu thuyết Nắng Qua Đèo là những hình ảnh rất là tội nghiệp của tất cả các nhân vật – họ là chúng sanh rất tội nghiệp -- đang trôi trên dòng sông cuộc đời. Tội nghiệp, cõi này là như thế. Từ tội nghiệp, dẫn tới xót thương. Nếu chúng ta dùng chữ có vẻ nghiêm trọng theo ngôn phong nhà Phật, có phải tiểu thuyết này là một ý thức về Khổ Đế? Mở đầu bằng bệnh, và kết thúc bằng cái chết. Hiển nhiên, đó là sự thật: cuộc đời không lìa được bệnh và chết.

  

Ngay nơi đoạn văn đầu của Chương I, tác giả Khánh Trường viết từ dòng thứ ba là hình ảnh có thể làm các Phật Tử quen đọc Kinh sẽ giựt mình, trích:

"...Mùa lũ, nước sông dâng cao, cuồn cuộn chảy xiết, những thân gỗ lớn từ thượng nguồn trôi về, phóng nhanh. Nhân nhìn bầu trời thấp, mây đen phủ kín và dòng sông hung dữ. Sắp mưa ư, Nhân tự hỏi, làm cách nào qua sông? Phải qua được sông vào thị trấn nếu không muốn chết cóng giữa đồng không mông quạnh này. Nhân nhìn suốt phải trái bờ, không một bóng thuyền..."
 

Có phải đây là dòng sông của nghiệp, dòng sông sinh tử cuồn cuộc chảy xiết? Đức Phật trong rất nhiều kinh đã nói là phải qua bờ kia, rằng bờ này là khổ, bờ kia là giải thoát. Tác giả lại kể về hình ảnh những thân gỗ từ thượng nguồn trôi về... đó cũng là một hình ảnh của Kinh Phật.
 

Trong Kinh SN 35.241, Đức Phật nói: "...Này các Tỷ-kheo, nếu khúc gỗ không đâm vào bờ bên này, không đâm vào bờ bên kia, không chìm giữa dòng, không mắc cạn trên miếng đất nổi, không bị loài Người nhặt lấy, không bị phi nhân nhặt lấy, không bị mắc vào xoáy nước, không bị mục bên trong; như vậy, này các Tỷ-kheo, khúc gỗ ấy sẽ hướng về biển, sẽ xuôi theo biển, sẽ nghiêng nhập vào biển..." Biển, nơi đây là Niết Bàn, là giải thoát.
 

Hình như Khánh Trường không có ý viết tiểu thuyết kiểu chú giải Kinh Phật, nhưng sẽ có một số người chợt nhận ra những hình ảnh rất ẩn dụ tình cờ đó. Thế rồi, nhân vật tên Nhân (Nhân còn có nghĩa là người, là con người, là nhân loại) đã nhìn suốt phải trái bờ, không một bóng thuyền... Cõi này buổn vậy ư? Chúng ta, con người, đứng bơ vơ, đứng cô đơn, nhìn dòng nước lũ, và không một bóng thuyền. Chúng ta sinh ra và chết đi đều bơ vơ, đơn độc như thế.
 

Thế rồi, nơi vài trang sau, tác giả Khánh Trường kể rằng nhân vật tên Nhân lên ghe cùng với anh Nông dân và anh Tư râu chèo đò để qua sông. Thế rồi, một thanh gỗ lớn đâm vào con đò, đụng dữ dội tới mức ghe lật chìm. May mắn, Nhân bám vào thân gỗ, thoát chết.
 

Trong truyện cũng nói rằng Nhân bị bệnh nan y, kể như sẽ chết sớm. Thế là, Nhân đi bụi đời.
 

Tác giả giải thích: "Đã ba tháng rồi kể từ ngày Nhân bỏ việc lên đường giang hồ, nhiều vùng đất Nhân đã đến. Nhanh, vài ba hôm. Chậm, một tuần, mươi ngày, nhưng không nơi nào giữ chân Nhân lâu hơn. Chẳng phải các địa danh mới không hấp lực, trái lại, nhiều nơi lắm quyến rũ mạnh mẽ, thế nhưng lòng Nhân vẫn nguội lạnh. Kể cả những cuộc tình, những quan hệ gái trai, vốn ngày trước là một đam mê luôn khiến Nhân bận tâm. Lý do nào gây nên sự dửng dưng này? Giản dị thôi, kể từ lúc Nhân biết tin, qua vài xét nghiệm y khoa, mầm ung thư trong người Nhân đã đến giai đoạn cuối. Lúc đầu mới nhận tin này, Nhân có cảm tưởng đang rơi vào một vực thẳm không đáy, Nhân đau đớn, tuyệt vọng."
 

Nghĩa là, đi để chờ chết. Tất cả các diễn biến đều là những hình ảnh tội nghiệp của người trong cõi này. Thế rồi Nhân cũng tới thăm một cổ tự trên núi Miền Trung. Tác giả ghi rằng dân chúng kể lại rằng một Ni sư ban đầu tới vùng núi này ngồi thiền, tụng kinh. Thế rồi một con trăn lớn hiền lành ra cuộn tròn gần bên. Dĩ nhiên, chuyện kể lại của người dân từ thế hệ này qua thế hệ kia, có thể đã biến đổi theo kiểu riêng từng người kể lại.
 

Tuy nhiên, tiểu thuyết Khánh Trường vẫn có một nét độc đáo (hay một thói quen?) là những cuộc làm tình. Bất kể bị bệnh ung thư, nhân vật tên Nhân trong khi lang thang đã dan díu vào một vài chuyện giường chiếu. Với nhiều người. Có khi trả tiền, có khi chỉ là tình cảm, là dan díu. Nỗi buồn theo đuổi trong cõi rất tội nghiệp này là, theo tác giả Khánh Trường, sau một đêm dan díu với một cô tiếp viên: "Xác thịt no đủ bao nhiêu thì tâm hồn khánh kiệt bấy nhiêu."  Không vui, thực sự cõi này đầy bất trắc, không vui.
 

Bất trắc. Không ai biết những gì chờ đợi mình trong khoảnh khắc kế tiếp. Tác giả ghi lại suy nghĩ của Nhân: "Căn bệnh nan y bất ngờ đẩy Nhân xuống vực sâu tuyệt vọng. Làm sao biết trước được chuyện gì sẽ xảy ra? Cuộc đời con người luôn diễn ra theo một hướng nào đó nằm ngoài dự kiến."
 

Những chi tiết cũng trải dài với lịch sử. Cũng một thời hậu chiến, với những tan tác, đổ vỡ. Cũng có chuyện vượt biên. Cũng nhắc tới chiếc cầu Hiền Lương, nối hai bờ đất nước một thời ngăn cách.
 

Tiểu thuyết Nắng Qua Đèo cũng kể về một mối tình, ban đầu rất say đắm, giữa nàng Tâm và chàng Luân. Tội nghiệp, vì chuyện tình không bình an. Luân đã có vợ con, và giấu biệt khi gặp và say mê Tâm. Thế rồi Tâm có thai, Luân bỏ chạy về với vợ con. Không vui tí nào. Tâm sinh con xong, một bé trai, rồi vùi đầu vào việc làm thiện nguyện. Tâm chợt có ý nghĩ muốn đi tu, nên xin Sư Bà cho xuất gia. Dĩ nhiên, cho tới khép truyện, Tâm vẫn chưa trở thành ni cô. Chi tiết này hẳn nhiên là tiểu thuyết, rất là truyền thống dân gian. Thực sự, đi tu là chuyện hy hữu, khó lắm. Nhưng đời thường vẫn nghĩ rằng, hễ có chuyện buồn là xin đi tu.  
 

Tất cả các nhân vật trong tiểu thuyết Khánh Trường đều là các hình tượng rất mong manh, dễ dàng hư vỡ. Ngay cả những lúc vui, cũng đã hàm ẩn những gì rất buồn. Các chi tiết rải khắp cuộc đời của các nhân vật trong Nắng Qua Đèo là những gì rất buồn: bệnh, đau đớn, tan vỡ, và rồi chết. Rất tội nghiệp, và đó là bản chất cuộc đời. Những hình ảnh bình an trong truyện, như ngôi cổ tự, vẫn là hiếm hoi và như dường là những gì ngoài tay với của chúng sinh.
 

Chúng ta quen thuộc với hình ảnh của Khánh Trường nổi tiếng như một họa sĩ, trong khi nhiều phương diện khác của ông vẫn rất nổi bật, nổi tiếng. Khánh Trường làm báo. Khánh Trường làm thơ. Khánh Trường viết truyện. Lĩnh vực nào cũng xuất sắc. Trong khi nét vẽ Khánh Trường trong quá khứ từng có lúc rất Thiền, từng có lúc rất lãng mạn, từng có lúc rất dữ dội. Riêng bây giờ, trong tác phẩm mới nhất của Khánh Trường -- tiểu thuyết Nắng Qua Đèo từ trang đầu tới trang cuối là những gì rất buồn, đầy những tan vỡ.
 

Vâng, nỗi buồn bất tận, đó là bản chất của cuộc đời này. Ngòi bút Khánh Trường nơi đây đã nêu lên được những gì rất buồn, rất mong manh, rất dễ hư vỡ đó. Có phải bây giờ nắng đã nghiêng bóng chiều rồi. Khi gấp lại những trang cuối tiểu thuyết Nắng Qua Đèo của Khánh Trường, bạn có để ý thấy vài tia nắng rời ban chiều vẫn còn hiu hắt vương lại, chưa chịu rời trang giấy? Cũng như là những nỗi buồn của chúng ta trong cõi này, như đôi mắt của một người chúng ta đã từng yêu thương và rồi trở thành những ký ức nuối tiếc khi tóc đã bạc và chiều đã tới. Nơi đó, vạt nắng chiều đã nhạt, còn vương gì trong đôi mắt người xưa. Nắng kìa. Nơi lưng đèo. Ai biết nắng tới vì đâu. Tiểu thuyết Nắng Qua Đèo của Khánh Trường cũng như thế. Đó là những tia nắng còn vương, vì còn thương mãi đời này.

California, tháng 12/2021.

 

GHI CHÚ:

Bài trên dùng làm Lời Bạt, in nơi các trang 201-209, cho tiểu thuyết Nắng Qua Đèo của nhà văn Khánh Trường. Sách do nxb Mở Nguồn ấn hành năm 2022. Độc giả cần liên lạc, xin email về Hân Lê: [email protected]  hay Khánh Trường: [email protected] .

 

 

 

 

 

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.