Hôm nay,  

Mồ côi mẹ liếm lá đầu đường

07/05/202220:18:00(Xem: 3409)
Tạp bút Ngày Của Mẹ

tvan-Me

Chân dung cuối cùng của một người mẹ.

Tranh: Daphne Todd – Nguồn: theguardian.com.



Mười năm tóc mẹ màu tang trắng

Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

(Trần Trung Đạo)

 

Một người bạn tôi vừa mới mất mẹ. Mẹ anh đã thọ được 75 tuổi và có lẽ sẽ sống thêm vài năm nữa nếu bà không mắc phải căn bệnh tiểu đường dai dẳng. Trong những bức điện thư gửi cho tôi, anh biểu lộ một tâm trạng rất chán nản, buồn rầu. Thậm chí anh quyết định ngưng một số công việc thường ngày liên quan đến sách vở viết lách mà anh xem đó như là những khoảnh khắc hoàn toàn thoát tục, giúp anh tạm quên mọi phiền toái của cuộc sống.

 

Tôi chẳng may mất mẹ từ năm 10 tuổi. Tất cả hồi ức của tôi về mẹ là hình ảnh người đàn bà vừa hơn 30 tuổi đời, tấm thân gầy đét khô quắt vì sự tàn phá của vi trùng ung thư, nằm thoi thóp đợi chết trong căn nhà tồi tàn thuộc khu xóm nghèo Vườn Chuối, Sài Gòn. Khi bà qua đời, tôi đã khóc những giọt nước mắt cuối cùng của tuổi thơ ngắn ngủi. Và sau đó, tôi sống cuộc đời mình như cỏ hoang mọc dại – mồ côi mẹ liếm lá đầu đường – cho nên, đến bây giờ, đã sống gần hết một đời người, tôi vẫn như còn cảm được nỗi đau mất mẹ ở một người lớn tuổi như anh bạn tôi nó sâu sắc cỡ nào, chứ không đơn giản chỉ là cảm thức mất mát một người thân yêu, đã từng sống với mình bao nhiêu năm trời, đã từng gần gũi chia sẻ với mình bao đắng cay ngọt bùi.

 

Nỗi đau mất mẹ lớn hơn và khác hơn nhiều cái cảm thức thông thường ấy.

 

Hình tượng về người mẹ quả thật lớn lao. Mẹ là chỗ khởi đầu của một con người. Từ đó anh ta ra đời, trưởng thành, làm những điều vĩ đại cho cuộc sống. Mẹ cũng là chỗ quay về của một đời người. Nhất là khi một người gặp nhiều điều không như ý trong cuộc sống. Mà trong cuộc đời này, mấy ai không có đôi lúc cảm thấy mình chỉ là chiếc bóng vật vờ đi bên lề cuộc đời, bị cuộc đời khinh bỏ, ganh ghét, những lúc ấy, chỉ có một nơi chốn để trở về, đó là căn nhà của mẹ. Căn nhà có thể nghèo nàn, đơn sơ, nhỏ bé nhưng đó vẫn là căn nhà của mẹ, từ đó, một đời người được sinh ra, nuôi dưỡng. Cũng như hình dáng người mẹ, nhất là người mẹ Việt Nam nhỏ bé, lam lũ, quê mùa, ít học nhưng tấm lòng thì bao la như biển Thái Bình và sự khôn ngoan của người mẹ thì hàng vạn pho sách thế gian này tích lũy được cũng chỉ là sự ghi chép những lời dạy của người mẹ truyền lại cho con.

 

Người mẹ của anh bạn tôi là bóng cả che cho anh trong suốt hơn 50 năm làm người, nay bà bỏ cõi trần mà đi, cũng có nghĩa là anh đã mất đi một chỗ dựa vững chắc nhất trong đời mình.

 

Cái cảm thức chông chênh ấy chỉ xảy ra khi người ta mất mẹ.

 

Tôi đã từng chứng kiến cảnh một người mẹ lặn lội đường xa từ một làng quê miền Tây đến thăm con mình ở trại cải tạo Long Giao, trên tay bà chỉ có mỗi lon Guigoz mắm ruốc. Bà nghèo quá không thể lo hơn được nữa cho con. Nhìn hai tấm thân gầy gò ôm nhau khóc bên hàng rào kẽm gai – một của người mẹ, một của người con cải tạo – tôi hiểu hơn được một chút nỗi bất hạnh lớn lao của mình. Lúc ấy, tôi ước gì ít nhất mình cũng có một người mẹ nghèo như thế để được ôm, để được khóc. Tôi – kẻ mồ côi liếm lá đầu đường – được một cô gái trẻ và đẹp đến thăm. Cô mang cho tôi rất nhiều thứ: tình yêu, nước mắt, tấm lòng chung thủy (cánh hoa mỏng manh trước gió của một thời oan nghiệt), những túi quà nặng trĩu. Nhưng với tôi, cô gái ấy vẫn chỉ là một người con gái yêu tôi và tôi yêu. Mà tình yêu trong thời thổ tả ấy, với thân phận Từ Hải chết đứng, nhắm mắt đưa chân vào chốn lao tù không biết đến ngày về, thì làm sao trông cậy được vào nghị lực nhỏ nhoi của một người con gái. Sau lần gặp gỡ đó, tôi lầm lũi bước chân xuống tàu ra Bắc. Và tất nhiên, đường xa diệu vợi, thời gian cũng dài thăm thẳm, làm sao tôi dám nghĩ có một ngày được nhìn lại người con gái ấy. Nhưng tôi biết chắc chắn một điều, người mẹ nghèo khổ gầy gò tội nghiệp của anh bạn cùng tù, nếu sức khỏe bà cho phép, sẽ một ngày có mặt ở chốn đèo heo hút gió này thăm anh, có thể cũng chỉ với lon Guigoz mắm ruốc nhiều muối hơn và tấm thân gầy gò xơ xác hơn. Nhưng có hề gì, tấm lòng thương con to lớn của bà, cũng như bao bà mẹ khác, vượt lên trên hết những nhỏ bé phù phiếm ấy, vượt lên trên hết con đường thăm nuôi Bắc-Nam vạn dặm, vượt lên trên hết những năm tháng dài dằng dặc có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến một ngày về. Với bà, bất kể mọi đổi thay của thời thế, của đất trời, con của bà vẫn cứ mãi mãi là con của bà. Mà dẫu cho bà không thể một lần ra thăm con nơi đất Bắc, thì căn nhà của bà – túp lều tranh dột nát bên bờ ruộng cằn – vẫn sẽ là chỗ cho con bà trở về, nếu quả thật có một ngày về và nếu anh còn sống sót để trở về.

 

Còn tôi, tôi đã sống sót sau nhiều năm khổ ải và đã có một ngày về. Nhưng người con gái tôi yêu không còn đó để đón tôi ngày tôi thoát kiếp tù đày. Tôi không hề trách móc nàng, vì thử thách ấy lớn quá đối với rất nhiều người con gái của thế hệ tôi năm xưa. Ngay cả những người vợ còn đành chịu thua số phận, huống gì là những người tình.

 

Bước những bước chân buồn tênh trên đường ra khỏi cổng trại giam, tôi nghĩ đến bà mẹ già nghèo khổ và anh bạn cùng tù tôi đã gặp nhiều năm về trước. Anh về trước tôi vài tháng. Hẳn bước chân anh rất hân hoan cũng trên con đường đất đỏ tôi đang đi. Vì anh có một chỗ để trở về. Và biết mình sẽ được chào đón bằng cả một tấm lòng của người mẹ. Còn tôi, không còn mẹ để trở về. Và cũng không còn ai khác đón tôi ngày ra khỏi trại tù sau gần 9 năm biệt xứ. Thêm một lần nữa, tôi hiểu thêm được một chút nỗi bất hạnh lớn lao của mình.

 

Cái cảm thức hụt hẫng ấy, vì mất đi lòng tin tưởng rằng có một người luôn toàn tâm toàn ý nghĩ về mình, chỉ xảy ra khi người ta mất mẹ.

 

Từ bấy đến nay, đã bao nhiêu nước chảy qua cầu. Tôi đã gặp một người con gái sẵn lòng đi bên tôi trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Khi mới gặp nhau, tôi thường dắt nàng ra ngồi bên mộ mẹ tôi để trò chuyện. Vì nghèo quá, ít khi nào chúng tôi có tiền để đi ngồi quán. Nhờ vậy, mộ mẹ tôi bớt đi vẻ hoang vu cỏ mọc ngập đầu từ những ngày tôi còn ở tù. Rồi tôi cũng dành dụm đủ tiền để mướn người hốt cốt cho mẹ tôi, cho bố tôi, bỏ vào hũ, và đem gởi ở một nhà thờ, trước ngày tôi cùng người con gái ấy rời nước ra đi. Tôi không có một tấm hình nào của mẹ mình. Hình như trong đời mẹ tôi, cũng chưa một lần bà ngồi xuống để cho người ta chụp một bức hình. Cho nên, trong đầu tôi, ngoài tấm thân gầy đét nằm chờ chết trên giường bệnh của bà, khuôn mặt của người mẹ là khuôn mặt người đàn bà nghèo xơ xác năm xưa tôi tình cờ nhìn thấy trong một buổi thăm nuôi ở trại Long Giao trước khi chúng tôi bị chuyển trại ra Bắc. Người mẹ nghèo này, năm nay nếu còn sống chắc cũng vào khoảng tuổi của người mẹ mới mất của anh bạn tôi. Và anh bạn tù năm nào, chắc cũng đã cho mẹ mình được những đứa cháu nội và nhắc lại cho chúng biết rằng, đã có những năm tháng tận cùng nhất cuộc đời của anh và anh đứng dậy được là nhờ ở tấm lòng người mẹ già đi thăm anh với chỉ một lon Guigoz mắm ruốc. Ôi hạnh phúc biết bao cho anh bạn tù năm xưa của tôi. Anh có được rất nhiều điều hãnh diện để kể cho con cháu anh nghe.

 

Hôm qua, trong một buổi họp mặt cuối tuần với mấy người bạn thân, nhân câu chuyện về tuổi già và cái chết đang chờ sẵn cuối đường, một người bạn của tôi đột nhiên ôm mặt thổn thức ngay trước mặt vợ con mình. Người mẹ già của anh hiện đang nằm thoi thóp trong một bệnh viện ở Việt Nam. Biết mẹ mình tuổi già như ngọn đèn leo lét, chỉ cần một cơn gió nhẹ thoảng qua cũng đủ kết thúc một cuộc đời chỉ biết đến chồng và con, nhưng nỗi đau của anh còn là sự cách trở cùng với muôn vàn những bề bộn hằng ngày khiến anh không thể bay về ngay được bên mẹ, nhìn mặt mẹ lần cuối, và hát cho mẹ nghe bài hát anh mới viết tặng mẹ mình:

 

Mẹ bỏ ta đi

Mẹ về cõi Phật vô ưu

Những đứa con tuổi năm mươi

Khóc như ngày mới lớn

(Thơ Ngọc Phi, Nhạc TLV).

 

Nhìn những giọt nước mắt già nua trên khuôn mặt kinh qua nhiều sóng gió cuộc đời của anh bạn, tôi lại hiểu thêm được một chút nữa nỗi bất hạnh lớn lao của mình. Tôi không có được tiếng khóc như ngày mới lớn ở tuổi năm mươi như những người bạn của tôi, vì tôi không còn mẹ già, dù là người mẹ già đang sẵn sàng để bỏ con đi bất cứ lúc nào. Có nỗi đau ấy còn hơn không có gì khiến mình có thể rơi nước mắt.

 

Những giọt nước mắt ở tuổi năm mươi như anh bạn tôi chỉ rơi xuống không e dè, không giấu giếm khi người ta nghĩ đến mẹ già đang chờ con về để nhìn con một lần cuối.

 

Trong những ngày đầu của tháng 5 hằng năm, các con tôi luôn xôn xao bàn tán với nhau nên mua món quà nào cho mẹ chúng nhân ngày Hiền Mẫu (Mother’s Day). Có năm, thằng anh lớn của chúng ra chợ Wal-Mart vác ngay cái vòng hoa giả (vốn là để cho người ta đem ra cắm ở mộ người chết vì tháng 5 hằng năm cũng có ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong – Memorial Day) về, rồi mấy anh em hí hửng đem ra tặng cho mẹ, chúc mẹ sống đời với chúng con. Từ lần đó, năm nào chúng cũng xin tôi cho ý kiến về việc mua món gì tặng mẹ, rồi kín đáo xin phép mẹ rủ bố đi thư viện, nhưng thực ra là đi lùng mua một món gì đó cho ngày Hiền Mẫu.

 

Các con tôi còn quá nhỏ để tôi có thể giải thích những điều vượt khỏi tầm nhận thức của chúng về ý nghĩa to lớn của hình tượng người mẹ, mà hiện nay, chúng mặc nhiên thụ hưởng. Cho nên, tôi để chúng biểu lộ tình cảm biết ơn một cách vật chất nhiều hơn là tinh thần. Để đến một ngày nào đó* (mà tôi hằng nghĩ sẽ còn lâu lắm và ao ước rằng tôi không còn sống để chứng kiến), chúng sẽ tự mình đau đớn hiểu được những mất mát mà bố của chúng đã chịu từ năm mới lên 10 tuổi.

 

Và kinh nghiệm cả cái cảm giác chông chênh, hụt hẫng mà anh bạn thân của tôi đang đóng cửa gậm nhấm trong những ngày anh vừa tròn 55 tuổi đời.

 

– T. Vấn

(Nhân ngày Hiền Mẫu)

 

*Ngày Hiền Mẫu 2022, cuối cùng thì cái điều mà tôi hằng sợ hãi đã đến. Các con tôi đã mất mẹ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.
Anh cho xe dừng lại nơi góc đường rồi đi bộ về phía căn nhà. Tuyết đang rơi dầy đặc trắng xóa cả bầu trời, đúng là một White Christmas như nhiều người mong muốn. Những ánh đèn màu trang hoàng trước sân các nhà nhấp nháy vui tươi như đang mừng đón Chúa Hài Đồng giáng trần. Anh bước lên bậc thềm gỗ, bước rón rén đến cửa sổ nhìn qua tấm rèm mỏng, hơi giật mình sựng lại khi thấy ba mẹ con cô ấy đang dọn bữa ăn đêm Noel. Hẳn là họ vừa đi lễ về, anh thầm nghĩ. Nhìn đứa con trai mười ba tuổi và đứa con gái mười một tuổi giúp mẹ sắp xếp bày biện thức ăn trên bàn, anh thoáng chút xúc động và an tâm vì các con đã lớn, có thể đỡ đần mẹ trong nhiều việc nhà, anh cũng thấy bớt đi mặc cảm tội lỗi của mình.
Chuyện xảy ra trên một chuyến xe Greyhound. Xe đò Greyhound có vẽ con chó sói xoải cẳng phi nước đại bên hông là thứ nối liền các thành phố bên Mỹ và Canada. Nhiều người trong chúng ta chắc đã từng ngự trên những chuyến xe xuyên liên bang này. Tôi cũng đã từng xuôi ngược với Greyhound. Từ Montreal qua Washington D.C. thăm bạn bè dân thủ đô nước Mỹ như các ông Dzương Ngọc Hoán, Nguyễn Tường Đằng. Từ Vancouver qua Portland thăm ông Từ Công Phụng. Từ Seattle về Vancouver sau khi cưỡi du thuyền đi Alaska thăm mấy chú gấu tuyết. Nói như vậy để thấy tôi cũng có chút kinh nghiệm khi chen vai thích cánh cùng những người không có hoặc ngại lái xế riêng.
Hai chữ giang hồ không mấy xa lạ trong đời sống của mỗi người đều thường đề cập trong thơ, văn, điện ảnh… và cũng là câu nói thường tình với cá nhân, nhóm người trong xã hội. Tác phẩm Thủy Hử ban đầu là Giang Hồ Khách Truyện, sau lấy tên là Thủy Hử vì “căn cứ địa” Lương Sơn là vùng đầm, hồ nên Thủy Hử (bến nước). Truyện nầy qua bản dịch của La Thần và Á Nam Trần Tuấn Khải, gồm 3 cuốn, năm 1973, sau đó với Tử Vi Lang nên rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Trong truyện Thủy Hử của của nhà văn Thi Nại Am (1296-1372) ở Trung Hoa vào triều Nguyên-Mông (1295-1368), kể về câu chuyện của Tống Giang triều nhà Tống, nổi dậy kéo theo “giang hồ hảo hán” gồm 108 người đến núi Lương Sơn. Gọi là anh hùng Lương Sơn Bạc.
Ở Sơn Tây, tôi là khách lạ nhưng mang tâm trạng sâu đậm như người trở về nguồn cội. Đầu tiên tôi tìm mua tấm bản đồ tỉnh lỵ nhưng không ai bán, họ chỉ dẫn địa điểm Thành Cổ rồi theo 4 hướng Đông Tây Nam Bắc của hình vuông ấy là sẽ tìm ra mọi nơi. Hướng Nam đối diện với phố Quang Trung còn gọi là Cửa Tiền, Cửa Hậu ở hướng Bắc có phố Lê Lợi và nếu đi thẳng đến cuối đường sẽ gặp sông Hồng, hướng Đông là Cửa Tả nhìn ra chợ Nghệ và cuối cùng hướng Tây hay Cửa Hữu có phố Ngô Quyền.
Buổi sáng cuối tuần, mùa đông chớm về với những cụm mây xám nhạt, lơ lửng trôi trên bầu trời California, không khí se se lạnh, tôi và Hoàng ngồi ngoài hàng hiên quán Coffee Lovers của Thành phố Hoa vàng nhìn trời hưu quạnh. Bên hai ly cà phê sữa nóng và dĩa bánh Patechaud, Hoàng nói chậm dãi, nhỏ nhẹ, kể cho tôi nghe về quê ngoại của Hoàng thời niên thiếu.
Theo thông lệ trước đây, hằng năm vào đầu tháng 9, CVKer 65 Bok Thân có tổ chức buổi tiệc gây quỹ cho địa phận Kontum. Năm nào Bok Thân cũng thành công mỹ mãn, gởi về quê nhà nhiều số tiền lớn lao dùng cho các hoạt động bác ái của địa phận. Sau dịch cúm Tàu phù, kinh tế trì trệ, dân chúng cũng ngại đám đông nên Bok Thân phải uyển chuyển tổ chức 2 năm một lần; lần này là Đêm Tình Thương lần thứ Sáu.
Memphis là thành phố lớn của tiểu bang Tennessee, nổi tiếng là một trong những cái nôi của dòng nhạc Blues & Jazz của nước Mỹ. Cách đây 4 năm, tôi lái xe đến thăm Memphis chỉ để được nghe nhạc Blues “nguyên chất” tại B.B King’s Blues Club, một trong những “việc đáng làm trong đời” đối với những người mê nhạc Jazz. Nghe nhạc Jazz ở Memphis sẽ thấy được dòng nhạc như chảy trong huyết quản của người da đen ở Miền Nam Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 10 năm nay, tôi trở lại thành phố Memphis, nhưng đó không phải là đích đến của chuyến đi. Memphis có phi trường chỉ cách Tu Viện Mộc Lan khoảng hơn một tiếng lái xe. UH, một cô bạn đồng tu đã từng cùng học với một vị thầy, cùng sinh hoạt trong một nhóm Phật tử ở Quận Cam California được chấp nhận vào ni đoàn, làm lễ xuống tóc xuất gia tại Mộc Lan. Tôi cùng một nhóm bạn nhận lời mời đến dự sự kiện trọng đại của một đời người này.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.