Hôm nay,  

Nói với ngàn thông – Tưởng nhớ nhà thơ Nguyễn Đức Sơn

05/06/202221:54:00(Xem: 3924)

Tạp bút

 

sonnui
Thi sĩ Nguyễn Đức Sơn tại rừng thông Phương Bối.

 

Ở ăn với Mẹ mày nhiều

Có trưa hộc máu, có chiều trào cơm..."

(Thơ Nguyễn Đức Sơn)

 

Bút hiệu, một ẩn khuất của định mệnh, vô hình chung đã gắn bó cùng tác giả cho đến hết một đời người. Nói thế chẳng có nghĩa là tôi đã duy tâm, nhưng phải nghiệm theo cách đó mới giải thích được "Sao Trên Rừng" của ngàn thông trên vùng thâm u Phương Bối.

 

Từ balcony của căn chung cư nhỏ, tôi hay đứng ngó mông ra xa nhìn chút nắng nhạt nhoà trên những tàn cây thấp rất xanh,  chi chít mọc dọc theo bờ sông bên kia, nơi có con đường mòn rất dài, loanh quanh dẫn qua Làng Báo Chí. Cái tĩnh lặng của chiều tà, dù trên đồi cao hay đường quê, biển khơi hay ngay trên dòng sông nho nhỏ trước hiên nhà... với tôi luôn là những giấc mơ êm ái.

 

Hôm nay, "chiều" của tôi đã không còn thanh tịnh. Mắt tôi chằm chằm nhìn theo một người mặc áo thụng dài màu lam, ông nắm con chó quăng rất xa xuống nước, chờ cho đến khi nó loi ngoi lúp xúp lên được bờ, ông lại quăng nó xuống nước trở lại, và cứ cả chục lần như thế... Không hiểu chú chó nhỏ có thích thú với cách đùa của ông chủ hay không, nhưng từ trên cao nhìn xuống, tôi thấy thương nó lạ lùng, thương rồi sốt ruột đến nỗi không còn dám nhìn thêm chút nào nữa.

 

Khi nghe tiếng đập cửa dồn dập, tôi mở rất vội vàng và đứng sững nhìn. Ông Sư và con chó ướt nước đứng chờ bên chiếc xe đạp cũ kỹ. Chẳng hiểu gì và sao vậy, tôi chỉ nhìn con chó nhỏ mà cảm thấy như toàn thân mình lạnh giá.

 

Chẳng chờ gì tôi, ông hỏi trước:

 

– Nghiêu Đề sáng có nhắn ra chơi, hắn, hắn về chưa cô?

 

Ngạc nhiên, té ra cái người "thấy mà ghét" đã hành hạ con chó nhỏ lại đang đứng trước mặt. Rất máy móc, tôi chạy vô gọi anh Nghiêu Đề ra mà "chịu trách nhiệm".

 

Thời gian đó Lâm Triết tá túc nhà chúng tôi ở cư xá Thanh Đa. Anh gốc người Bình Định, rất thân với Nguyễn Đức Sơn. Cả ba ông mày mày, tau tau mừng rỡ với một giọng phải nói là "la làng" của ông khách lạ. Việc đầu tiên tôi làm là lấy ngay máy sấy tóc hong khô cho chú chó nhỏ đáng thương và tội nghiệp của ông Sư. Nó rúc vào cánh tay tôi trìu mến như một lời cảm ơn ấm áp. Tôi cũng ôm nó trong lòng như một vỗ về đầy thương yêu.

 

Trước khi sửa soạn cho bữa ăn tối, ngập ngừng tôi hỏi nhỏ Nghiêu Đề về mặn, về chay. Ông át hết giọng mọi người, dù tôi cũng đang nói rất khẽ:

 

– Trước tiên, Cô đừng gọi tui bằng Sư bằng Thầy. Tui đây, Nguyễn Đức Sơn, thằng phải vô Chùa nằm vì trốn quân dịch, có vợ với con cái rất đông. Sống trong chùa nhưng toàn ăn mặn với thịt, cá, và nước mắm...

 

Ông "hét" ra một tràng chữ nghĩa làm tôi bối rối, chỉ Lâm Triết và Nghiêu Đề hiểu chuyện, cười thản nhiên. Riêng tôi đã thấy rất ngại ngùng, nhủ với lòng chắc phải e dè với lối nói năng bạt mạng của người khách mới.

 

Nguyễn Đức Sơn, cái tên vừa lạ lại vừa quen. Quen vì đâu đó trong những chuyện trò, thiên hạ hay nhắc đến, lạ vì tôi chưa hề bao giờ đọc thơ anh. Thời đi học, tôi mê mải với những tác phẩm được dịch từ nhiều ngôn ngữ trong tủ sách của ông anh trên căn gác nhỏ. Tôi đã đọc hết không chừa cuốn nào một cách say mê. Thẩm thấu được những chữ nghĩa đẹp ngời của văn chương, hay đã bị "Tẩu hỏa nhập ma" bởi làm dáng, làm điệu với một núi sách thì tôi không biết, nhưng nhất định cứ phải là Tagore, Kahlil Gibran, hay Hermann Hesse…

 

Tôi mê sách cho đến nỗi khi bị Ba Mẹ chống đối chuyện nhân duyên của tôi với anh Nghiêu Đề, bị doạ đuổi ra khỏi nhà hay đăng báo "từ con". Mọi biện pháp đều đã không cách gì thành công, và trước khi Ba Mẹ tôi nhân nhượng, anh tôi, bằng một giọng trang trọng hỏi: “Hãy cho anh biết nguyên do nào đúng nghĩa nhất". Có hay không một nguyên do đúng nghĩa? Vậy thì chỉ có Trời mới hiểu chứ sao lại là tôi? Nhưng rất nhanh trí, tôi nhớ ra anh mình mê sách, lí nhí tôi trả lời: "Vì nhà Nghiêu Đề có một tủ rất nhiều sách". Cái nguyên do vớ vẩn và ngớ ngẩn lại rất lạc đề khiến anh tôi đập bàn hét: "Vậy thì mày phải đi mà lấy cái ông Khai Trí hay Xuân Thu..."  Chữ "mày” lần đầu tiên anh dùng để xưng hô với cô em nhỏ đã làm tôi hiểu đến nơi đến chốn mức độ giận dữ của gia đình mình trước cái quyết tâm, nhất định... đi lấy chồng của tôi.

 

Vậy đó, mê thơ Kahlil Gibran nên còn rất hời hợt, lạ lẫm với thơ Nguyễn Đức Sơn, và tôi vẫn chưa vội đọc dù hôm đó anh đã đề tặng cuốn "Tịnh Khẩu". Sau này, đâu đó trong một tạp chí nào tôi không nhớ, bỗng thấy thích một chút thơ của anh:

 

Mẹ con muôn kiếp nào ngờ

Đời Cha mạnh khoẻ cũng nhờ rong chơi...

 

Lần duy nhất tôi được gặp chị Phượng, đi cùng anh Nguyễn Đức Sơn tay dắt chiếc xe đạp xẹp bánh. Ai cũng ướt mồ hôi dưới cái nắng chang chang, dễ sợ của Sài Gòn. Nghiêu Đề và tôi ngồi bên lề đường, uống nước mía,  chờ vá xe cùng anh chị. Dưới ánh nắng chói lòa, gay gắt mà tôi vẫn nhìn ra trong đôi mắt chị ẩn chứa những buồn bã cùng sự chịu đựng vô bờ...

 

Lóng lánh trong thơ của các Thi Sĩ là những bà Tú Xương (sao nhiều bà Tú Xương vậy?)

Câu hỏi này cũng làm tôi nhớ bài thơ Trần Tuấn Kiệt tặng Nghiêu Đề:

 

Ta ngồi hát nghêu ngao

Ba mươi năm rồi đó

Chỉ thấy một vì sao

Thôi tối rồi, đi ngủ

 

Trong mộng, ước gặp mày

Gặp nhau nói mấy lời

Ngủ xong rồi... vui chơi...

(Trần Tuấn Kiệt)

 

*

 

Sau 1975 Việt Cộng bầy ra cái "Hội Văn Nghệ", trụ sở này đặt ở ngã tư Hiền Vương và Trương Minh Giảng. Nơi đó, mỗi tuần các vị Văn Nghệ Sĩ thời VN Cộng Hoà phải tới trình diện. Nhưng với thói lè phè cố hữu, nơi đây chỉ là chỗ để tụ tập, cafe và tán dóc. Tiền bạc không có, mua một ly cafe mà xin thêm năm bình trà để có cớ ngồi từ sáng đến trưa. Khoảng chừng mười hai giờ, Hồ Thành Đức gõ leng keng chiếc muỗng lên cái nắp nhôm của bình trà, rồi rất hài hước anh réo bằng giọng Quảng Nam, kéo lê thê, kéo nặng nề: "Tan hàng, tan hàng, về thôi bay!"

 

Nguyễn Đức Sơn không thường lui tới Hội Văn Nghệ, nhưng khi đã tới anh đều làm anh em ngạc nhiên với quần áo, giầy và đầu tóc chỉnh tề, một điều không từng có trước 1975. Anh ngồi đó lầm bầm chửi bóng, chửi gió, chửi liên miên. Anh nói ra những sự thật mà ít ai dám đề cập đến. Anh chửi hết từ phường khóm tới lãnh đạo. Thiên hạ nhát gan, không ai dám ngồi chung bàn vì sợ tai bay vạ gió, sợ những kẻ tiểu nhân "thừa bóng đêm quăng lựu đạn". Anh ngồi đó một mình, không cafe, không trà đá, lầu bầu, chửi thề chán rồi bỏ về. 

 

Cũng có lần ai đó thắc mắc: "Tới đây mà xiêm y lộng lẫy… chi vậy, cha?" Da anh sạm nắng nên không chút ánh sắc nào còn có thể nhuộm lên nét mặt, nhưng qua câu trả lời đầy giận dữ của anh, tôi thấy ra mặt anh đang đỏ bừng như lửa: "Tau không muốn lộn, tau không muốn lộn". Câu nói ngắn, rất ngắn của Nguyễn Đức Sơn đã làm tôi nhìn ra những điều bất mãn, căm hận nhưng với nhiều khí tiết của anh. 

 

Vì sao ta đến đây hò hét

Học trò bẻ bút, tập mang gươm

Tập uống máu người thay nước lã

Múa may theo

Lịch sử điên cuồng…

(Nguyễn Đức Sơn)

 

Từ năm 1979, Nguyễn Đức Sơn mang hết gia đình anh lên Bảo Lộc, Phương Bối. Nơi đây anh sống hoàn toàn biệt lập, bất hợp tác với xã hội dưới mọi hình thức. Sống tự túc với đèn dầu tăm tối, ăn uống từ suối nước không chong, và cả với khoai sắn, nấm và rau trái do mình trồng ra. Một hình thức chống lại chế độ vô cùng quyết liệt và tuyệt đối của anh. Và cho dù có vì thế mà trong rất nhiều năm, gia đình anh đã phải sống trong vất vả, cực khổ đầy lam lũ.

 

Quyết định bỏ Sài Gòn lên sống nơi rừng thông Phương Bối, gian nan, thiếu thốn, và rất khó khăn của Nguyễn Đức Sơn. Phần nào cho tôi nghĩ đến Bá Di, Thúc Tề: Quyết không theo nhà Chu, không ăn thóc nhà Chu. Bỏ lên núi Thú Dương, và chỉ ăn rau Vi, cho đến chết.

 

Lên núi Tây chừ hái rau Vi

Lấy bạo đổi bạo

Chừ

Có hay chi?

Thần Nông, Ngu, Hạ...Chìm cả rồi

Ta

Biết nơi nào đi?

[Bá Di ,Thúc Tề, trước khi qua đời]

 

*

 

Tôi đang đọc thơ Anh. Đọc chỉ để ngậm ngùi, đọc để ước ao nếu có một lần gặp lại, ngồi với Anh trong những bữa cơm cùng Nghiêu Đề, Lâm Triết. Những buổi cơm chiều vừa mặn, vừa chay. Vừa nói chuyện Chùa Chiền, vừa nghe tiếng anh cười bạt mạng, la làng, và chửi thề vung vãi.

 

Trăm năm bóng lửng qua thềm

Nhớ nhung gì buổi chiều êm, biến rồi...

(Nguyễn Đức Sơn)

 

Lê Chiều Giang

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuyển tập Phóng sự Chiến trường 1972 của Nxb Văn Nghệ Dân Tộc in 1973 không có phần tiểu sử tác giả. Phóng viên Vũ Hoàng là ai? Bút ký của ông chật kín nỗi lòng người Kontum. Một chua xót phải mang gương mặt rỗ chằng chịt vết đạn và hơi thở nồng nặc mùi xác chết… Những trang chữ viết về những gì đã mất và còn lại của một thị trấn. [Trần Vũ].
Tôi tự hỏi có phải anh không có ai để nói chuyện nên buồn quá muốn tiêu hóa những suy nghĩ từng nung nấu?...
Cái chết làm nên đời sống của chúng ta. Cũng như mất mát làm nên âm nhạc. Cái chết của một người, một nghệ sĩ, một quê hương...
Bây giờ đang là chiều nơi anh, nhưng đêm đã khuya ở chỗ cô. Lẽ ra giờ này cô đã phải ngủ được mấy giấc rồi mới đúng. Nhưng bị cái tật nhiều chuyện. Họ cứ qua lại như thế. Cho đến khi câu chuyện đang sôi nổi bỗng lắng xuống. Câu anh hỏi hiện lên. Những con chữ đứng một mình. Không có những con chữ từ phía cô quấn quýt, mời chào, níu kéo nhau, lũ chữ của anh chợt bơ vơ. Và lúc ấy người đàn ông biết ở nơi xa lắc xa lơ kia cô gái của anh vừa mới ngủ thiếp đi. Anh hình dung cái Ipad nằm một bên chiếc gối bông, đầu cô nghiêng về phía ấy. Tóc trải loang mặt gối.
Từ ngày Du đột nhiên mất tích đến nay, Viễn không còn khái niệm về thời gian. Bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, cô không còn quan tâm… Bởi Viễn đã dồn tất cả tâm sức cho cuộc tìm kiếm. Cuộc kiếm tìm mà ai cũng cho là điên rồ, vô vọng. Nhưng Viễn thì không bao giờ, không bao giờ ngừng hi vọng… Viễn đã tìm Du bằng mọi cách. Nhưng Du cứ như người từ hành tinh nào đến rồi biến mất, không hề để lại chút dấu vết!
✱ Ngày 6.12.1970, Tướng Haig yêu cầu lập kế hoạch cho một “cuộc hành quân lớn của QLVNCH vào đất Lào, với sự yểm trợ tối đa của không quân Hoa Kỳ.” ✱ Ngày 15.12.1970, Tướng Haig đến Sài Gòn bàn thảo kế hoạch hành quân chung - Tất cả đều tán thành Tchepone là khu vực mục tiêu- một lực lượng QLVNCH gồm hai sư đoàn di chuyển về hướng Tây qua Đường 9 đến Tchepone ✱ Tướng Abrams, Tổng thống Thiệu và Tướng Viên đều cảm thấy rằng Tchepone là khu vực mục tiêu quyết định ở Lào, nơi khả năng cao sẽ mang lại nhiều kết quả ✱ Tướng Haig: TT Nixon đề xướng tiến hành chiến dịch mùa xuân 1971 gồm 3 giai đoạn... TT Nixon ủng hộ các hoạt động tấn công phủ đầu được thiết kế để đánh bại kẻ thù - sẽ củng cố chính phủ của Tổng thống Thiệu và cuối cùng là đóng góp vào sự thành công của chương trình Việt Nam hóa.
Đọc thư anh, tôi chợt nhớ tới một hoàn cảnh tương tự được thể hiện trong bản nhạc “Chiếc lá thu phai” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS), nằm trong số đĩa nhạc Trịnh anh gửi cho tôi, và đã làm tôi suy ngẫm...
Qua đến thủ đô Ottawa đúng mùa đông bão bùng, tháng 12, cao điểm tuyết trắng rơi ào ào không kịp vuốt mặt...
Hồi 2 giờ sáng ngày 15-10-2012, Norodom Sihanouk, cựu quốc vương Campuchia qua đời tại Bắc Kinh. Bắc Kinh và Hà Nội (Cộng Sản) tổ chức và tham dự tang lễ vô cùng trọng thể. Chết là hết. Nhưng nhân vật nầy đối với Việt Nam Cộng Hoà như thế nào?
Du lịch ở Hoa Kỳ, cả ông lẫn bà đều thích “săn” hàng hiệu của sở thú. Nào là con ngựa (Polo Ralph Lauren), con tôm (Tommy Hilfiger). Đến ngay cả con cá sấu (Lacoste), sinh đẻ bên Pháp, mà qua Mỹ cũng có giá “mềm”...
Tôi thắp lên một nén hương thơm và bình hoa tươi vừa mới hái sẽ chứng minh cho tâm tình tôi với Thái. Tôi thì thầm khấn những lời chân thật nhất, mong Thái sẽ vui lòng...
(Theo giáo lý Duyên Khởi của nhà Phật mọi chuyện trên thế gia này đều có thể xảy ra khi hội đủ nhân duyên, yếu tố.)
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.