Hôm nay,  

Một mùa xuân rất xa…

7/20/202222:34:00(View: 3152)

Truyện ngắn

hoa phuong

 

(Thương tặng các bạn sinh viên Huế, và các bạn cư xá Jeanne d'Arc & Xavier của thời vàng son dấu yêu.)

 

Một ngày mùa hè.

 

Ba chở tôi đến phi trường Phú Bài, Huế, đón cậu em từ Đà Lạt ra để giúp Ba và tôi trong việc làm ăn của Ba. Me và ba em kia vẫn đi làm đi học ở xứ sở sương mù. Gặp lại em Vũ sau nhiều tháng xa cách, thật mừng rỡ. Lúc xưa cả gia đình Ba Me và sáu người con đều quây quần, rồi chị và anh lớn đi xa để tiếp tục việc học, còn lại bốn chị em rất thân nhau. Ôi bao nhiêu kỷ niệm...

 

Mới mấy năm nay Ba phải ra cố đô để làm việc, một mình tôi đổi "cấp độ" từ nhỏ đến lớn, bi chừ là "Học Đại" rồi, nên theo Ba được. Em Vũ mang theo cây đàn tranh cho tôi. Tôi mới học được vài tuần ở Tỳ Bà Viện. Khệ nệ cầm cây đàn, tôi băng qua phòng chờ ở phi trường, rồi lần ra bên ngoài chỗ để xe. Chợt có hai anh lái tàu bay từ bên phi trường quân sự tiến đến, hỏi chuyện. Có lẽ vì nhìn thấy một con bé với vẻ mặt chẳng có gì là nghệ sĩ mà lại đi chơi loại đàn xưa và rất khó này rồi hai "ông " ấy tò mò chăng? Biết chúng tôi ở xứ ngàn thông, các anh rất thích, họ là người dân xứ biển Nha Trang hiền hòa, và thường bay lên đó, họ rất thích thành phố buồn của chúng tôi. Vài tuần sau, đến lúc nhập học, em tôi phải trở về Đà Lạt, còn tôi thì vào cư xá "để học cho yên". Ba bảo như rứa.

 

Vài ngày sau khi đi học, một anh tài xế máy bay ấy, anh Quang, đã đến cư xá và xin Sơ trông coi phòng khách để gặp tôi. Tôi chưa gặp anh Quang được, vì tôi chưa thưa chuyện với Ba Me tôi. Anh ấy ra về. Vài ngày sau, tôi nhận được lá thư của anh gởi từ Nha Trang. Tôi đã đưa thư cho Ba đọc, (tự tôi cảm thấy cần cho Ba đọc, vì Ba đâu có cấm cản chi mô?) Ba nói lời thư có vẻ chân thành, nhưng "chưa biết con ạ, các anh ấy thường rất bay bướm". Nếu anh ấy muốn gặp con ở cư xá, con có thể nói chuyện (vì Ba biết trong phòng khách, luôn có Sơ làm việc giấy tờ), và con có thể trả lời thư.

 

Nhiều tháng trôi qua. Anh thường có dịp phải bay ra Huế, có lần anh và bạn đều lái trực thăng vòng vòng quanh sân trường của tôi. Trời ơi! Cứ bay vần vũ quanh quanh như rứa. Thầy Cô và bạn bè không hiểu chuyện gì đang xảy ra! Chỉ có Kim Thoa và Ngọc Quỳnh ở cùng phòng cư xá với tôi biết là ai thôi: "Răng mà anh nớ gan cùng mình ghê luôn!"

 

Rồi còn đi với bạn để đón tôi lúc tan trường. Tôi luôn đi với cô bạn thân Kim Thoa, anh ấy cũng luôn có thêm một người bạn đi cùng. Muốn độn thổ luôn, trời ạ! Hai ông lính thuộc loại dữ dằn, mặc áo bay, đi kèm với hai con bé "chưa lớn", làm chúng vừa đi vừa nép vào nhau, che mặt mình không hết, cả trường ào ra như ong vỡ tổ, ai đi xe ra cũng ngoảnh mặt lại nhìn xem hai "con" nào mà ghê gớm rứa hè? Thôi, thôi, bước đi cho nhanh cho rồi, làm hai ông phải la lên: "Hai cô làm gì mà như bị ma đuổi vậy?"

 

Tôi phải cằn nhằn: "Sao anh muốn đến trường mà không nói trước, để bây giờ... làm sao mà trốn đây? Ngày mai vô lớp học thì chịu sao cho thấu?”

 

“Thì Thanh Lan cứ bảo là: ông anh ở Nha Trang đi công tác ra thăm em thôi mà, có gì nghiêm trọng đâu?"

 

Sau này tôi mới biết, anh ấy lúc nào cũng vậy, những việc gì nguy hiểm, kinh khủng, tất cả đối với anh đều nhẹ "như lông hồng". Có lúc thì tốt, nhưng có khi lại không tốt đâu nhe! Ngày thường thì chúng tôi vừa rảo bước vừa nhìn ngắm cảnh thơ mộng của kinh đô các "mệ" ngày xưa, nhìn qua con sông với cầu Trường Tiền nên thơ, hàng cây phượng vỹ đến mùa hè nở đỏ rực cả một góc trời, ở xa kia là núi Ngự Bình. Ngắm hoài không chán. Nhưng hôm nay hai đứa chỉ cúi mặt mà chạy, không dám nhìn ngang ngửa chi hết.

 

Hai anh chỉ đưa chúng tôi về cư xá, vì chúng tôi không đi ra quán uống nước với các anh, xứ Huế rất cổ kính, và cổ hủ về phong tục, nên chúng tôi rất ngại.

 

“Thanh Lan, mai tụi anh lại phải bay đi Pleiku rồi, cho anh nói chuyện với Lan một chút nhé?” Bạn tôi lên phòng, anh Hoàng, bạn của anh Quang bảo anh ấy ra quán cà phê gần đó đợi. Anh Quang vô phòng khách nói chuyện với tôi một chút, anh hỏi thăm tôi về việc học, về các em, rồi dặn tôi nhớ trả lời thư cho anh, khi nào mùa hè tôi về xứ sương mù, có dịp anh sẽ bay lên để thăm Me và các em, rồi sang năm học tới anh sẽ ra đây thăm Ba tôi.

 

Sang hè, khi tôi về Đà Lạt nghỉ vài tuần, anh đến nhà và nói chuyện với Me và các em tôi. Có một hôm, em tôi mới đi lấy hình chụp cả nhà về, và để trên bàn phòng khách, tôi chưa kịp cất, anh ấy đến, và muốn xem. Anh chọn một hình chân dung của tôi, và nói rằng kỳ này các anh sẽ đi Bảo Lộc, sẽ có giờ rảnh, anh muốn vẽ hình tôi. Ít lâu sau tôi nhận được một bức hình vẽ bằng bút chì rất đẹp, tôi lại biết thêm một tài năng của anh.

 

Sau này anh vẽ hình các con, chắc là tuyệt lắm nhỉ? (Ôi, lại mơ mộng hão huyền nữa rồi, cô bé ạ).

Anh đưa cho tôi tập thơ "Ta Chờ Em Từ Ba Mươi Năm" của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Không biết lúc đó anh bao nhiêu tuổi nhỉ?

 

1975...

 

Vài tháng thư từ, độ này anh không bay ra Huế nữa. Tháng 3. Người dân Huế vẫn chưa hết đau thương với Mậu Thân 1968, nay lại lảo đảo chồng chất trên những chiếc xe đò lớn nhỏ để vô Đà Nẵng, có xe traction ngày thường chỉ chở được 5 người, nay chất thành 8, 9, 10 người, rồi những xe minivans thì nhét như cá hộp. Vô Đà Nẵng cũng không yên, lại ùa nhau ra phi trường, ra bến cảng. Tôi cùng gia đình người bác ruột lênh đênh trên biển cả một tuần. (Ba đã đi nước ngoài vì công việc, sắp về lại). Suốt một tuần lễ, lênh đênh cùng mây nước, tôi không biết giờ này Ba Me tôi ở đâu, các anh chị em có được bình an không. Bảy ngày mà dài như bảy năm, buổi tối dài lê thê, không thể nào chớp mắt với sóng biển dập dềnh, ban ngày thì khô rát, nóng cháy. Rồi anh Quang ơi, gia đình anh có được an toàn không, anh đang ở đâu, cầu mong sao anh làm tròn nhiệm vụ người trai thời loạn, như bậc cha anh, nhe anh, dù cho có hy sinh cũng không màng, anh ơi.

Xà lan cặp bến Vũng Tàu... Rồi lên Sài Gòn...

 

Đến được nhà anh chị tôi, thật mừng rỡ biết bao khi gặp lại gia đình anh chị cùng Ba tôi vừa mới trở về được vài hôm, và Me cùng các em đang đi xe đò từ Đà Lạt xuống đây. Một buổi trưa, Hòn Ngọc Viễn Đông, trời nóng như thiêu, em Vũ, lại cũng cậu em "xe tơ" này, chở tôi đi Honda trên đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận, đến đường ray xe lửa, đèn đỏ, nhìn qua con đường đối diện, thấy anh Quang!

 

Ôi, phải chăng đây là ý trời? Nhiều tuần nay không được tin tức, nay được gặp lại anh. Buổi tối, cuối tháng 4, anh Quang đến nhà anh tôi ở Quận 5 gặp Ba Me tôi (lúc đó cả gia đình đều về nhà anh Chung của tôi), và xin cho tôi được bay đi đảo Guam, xứ Cờ Hoa, với anh cùng đồng đội. Tôi không chịu, vì đi như vậy, biết có gặp lại Cha Mẹ anh chị em được không, với lại đã cưới hỏi gì đâu?

 

Vài tháng sau, gia đình anh, sau khi ở tạm nhà bà con ở Sài Gòn ít lâu, đã trở về miền Thùy Dương.

Tôi theo Ba về Nha Trang để thăm người Cô ruột, chị của Ba. Tôi được đi ra biển với anh, một buổi chiều sóng thật lớn. Suốt bao nhiêu tháng quen nhau, đây là lần đầu tiên tôi đi ra ngoài với anh. Tôi luôn yêu thương thành phố biển này, ngày xưa cả gia đình thường được Ba chở đi nghỉ hè, cả mấy chị em tôi đều rất mê biển, cát, và sóng. Anh và tôi đùa nghịch với cát, nắm cát vào tay, bỏ vào tay đứa kia, nhưng không giữ được, chúng lại tuôn ra. Đi dạo, rồi chạy đuổi nhau ở mép biển, vừa nước vừa cát, ôi hạnh phúc làm sao! Đứng nhìn mặt trời lặn, sao đáng yêu quá, tôi luôn yêu cảnh mặt trời mọc hoặc lặn, nhưng sao hôm nay đẹp lạ thường. "Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ", nhưng người vui thì cảnh lại quá thơ mộng. Hạnh phúc ơi!

 

Lúc đưa tôi về nhà Cô tôi, anh đưa tôi một tấm thiệp, hình bầu trời đầy sao, và bên dưới là một cô bé đang nhìn lên. Bên trong:

 

Người là vì sao nhỏ bé

Ta mãi ước cho lòng làm bầu trời xanh xanh

Người về lòng ta thương nh

Ta khẽ hỏi đưa người hay thầm người đưa ta... (1)

 

Hôm sau, anh đến nhà thăm Cô và Ba tôi và xin phép đưa tôi đi dạo một vòng. Những đường phố xứ biển quá đẹp, với từng hàng cây phượng vỹ vẫn còn đỏ rực hoa mùa hè muộn, cây trứng cá với trái nhỏ đỏ li ti thật xinh và những hàng dương liễu dọc theo bờ biển, thơ mộng làm sao.

 

Anh đưa tôi lên tượng Phật Bà thật uy nghi trên đỉnh đồi Trại Thủy, đứng trên đỉnh đồi nhìn xuống thành phố thật đẹp – đã in trong trí tôi bao nhiêu năm nay, bây giờ mỗi khi ngủ tôi vẫn thường nhớ lại cảnh tượng nên thơ này – Tôi rất thích tìm những cọng hoa mắc cỡ (trinh nữ), rồi đụng vào lá cho chúng khép lại, và nói với anh: "Anh ơi, mai sau anh trồng hoa mắc cỡ phía sau nhà mình để em chơi như thế này nhé anh?" Anh cười, chắc có lẽ chịu thua cái con bé lớn mà chẳng lớn chi hết này! Sau khi đi một vòng, đến dưới chân bức tượng Phật, anh cầm tay tôi, nhìn vào mắt tôi thật lâu, và nói:

 

“Bé chờ anh nhé, bé ơi?”

 

Tôi thật nghẹn ngào, mãi lúc sau mới nói được:

 

“Em sẽ là Hòn Vọng Phu, nếu anh không trở về”.

 

Phút giây hạnh phúc như bóng câu qua cửa sổ.

Anh vuốt tóc em, một lần cuối, một lần cuối cùng, rồi thôi...

Anh hốt trăng thanh, trên áo em xanh, một lần cuối, như những lần đó xa xôi". (2) 

 

Đến ngày Ba và tôi trở về xứ Ngàn Hoa, còn anh thì đi biền biệt... đến bao giờ?

 

*

 

Trại tù... 

 

Anh viết: "Mỗi kỳ trăng tròn, anh thường nhìn lên ánh trăng, để tìm ánh mắt em phản chiếu trong đó, Ti ơi. Anh nhớ em quay quắt... nhớ đôi mắt thật buồn của em, bé ơi..."

 

Thăm nuôi...

 

Em ngậm ngùi khóc thương

Thương anh đợi mòn mỏi

Hờn căm ngút đoạn trường… (3)

 

Ngày anh trở về, mừng mừng tủi tủi... Kể làm sao cho xiết... Rồi ngày được định cư ở bến bờ tự do... Ba ơi, cái ông tài xế máy bay ni không có bay bướm chi hết, Ba à. Bao nhiêu mùa Xuân đã đi qua, anh và em đều mong ước một mùa Xuân được trở về, để đến những nơi chốn của thuở vàng son ấy...

 

Đất Mẹ, ngày trở về, để đón mùa Xuân như ước mơ, nhưng chỉ có các con và em... Anh đã ra đi...

Sài Gòn, Đà Lạt, Huế...Và sân bay Phú Bài. Tất cả đã không còn như xưa... Ngôi trường mến yêu, những con đường thân thương... Nhưng đối với anh và em, vẫn thật đáng quý, những nơi tràn ngập kỷ niệm dấu yêu, kể cho con nghe... Thương quý nhưng nghẹn ngào làm sao. Và Nha Trang, sóng biển và cát....

 

Hôm nay ngày rằm cuối năm, trăng sáng vằng vặc, em lại nhìn lên ánh trăng, tìm đôi mắt của anh, như ngày xưa mắt anh và em nhìn nhau trên đó, anh ơi...

 

Ngày mai em sẽ đưa các con lên đồi Trại Thủy, nơi có tượng Phật Bà, và kể cho con nghe về cái ngày xa xưa yêu dấu ấy. Bây giờ em không thể làm Hòn Vọng Phu để chờ anh được nữa rồi, em còn bổn phận với con cháu.

 

Anh đang ở đâu hở anh?

 

Anh Quang ơi, từ nơi xa ấy, anh có cùng mẹ con em đi thăm lại những con đường có lá me bay, những đồi thông con suối, không anh?

 

Một mùa Xuân trọn vẹn của anh và em, sẽ không bao giờ có được.

 

Trong phòng của mình, vẫn còn bức chân dung ngày xưa anh đã họa lại hình em đó, Quang ơi... Và chiếc áo bay ngày nào của anh vẫn ở bên em.

 

Những tưởng yêu thương đến trọn kiếp

Mong sẽ trăm năm cùng bạc đầu

Vầng trăng xưa, ngươi có nhớ gì không?

(Vũ Hoàng Chương, Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm)

 

-- TháiLan/nlan

 

(1)   Hai Vì Sao Lạc, Anh Việt Thu.

(2)   Một Lần Cuối, Hoàng Thi Thơ.

(3)   Hai Hàng Cây So Đũa, Thơ Nguyên Huy, Nhạc Trọng Minh.

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.
Anh cho xe dừng lại nơi góc đường rồi đi bộ về phía căn nhà. Tuyết đang rơi dầy đặc trắng xóa cả bầu trời, đúng là một White Christmas như nhiều người mong muốn. Những ánh đèn màu trang hoàng trước sân các nhà nhấp nháy vui tươi như đang mừng đón Chúa Hài Đồng giáng trần. Anh bước lên bậc thềm gỗ, bước rón rén đến cửa sổ nhìn qua tấm rèm mỏng, hơi giật mình sựng lại khi thấy ba mẹ con cô ấy đang dọn bữa ăn đêm Noel. Hẳn là họ vừa đi lễ về, anh thầm nghĩ. Nhìn đứa con trai mười ba tuổi và đứa con gái mười một tuổi giúp mẹ sắp xếp bày biện thức ăn trên bàn, anh thoáng chút xúc động và an tâm vì các con đã lớn, có thể đỡ đần mẹ trong nhiều việc nhà, anh cũng thấy bớt đi mặc cảm tội lỗi của mình.
Chuyện xảy ra trên một chuyến xe Greyhound. Xe đò Greyhound có vẽ con chó sói xoải cẳng phi nước đại bên hông là thứ nối liền các thành phố bên Mỹ và Canada. Nhiều người trong chúng ta chắc đã từng ngự trên những chuyến xe xuyên liên bang này. Tôi cũng đã từng xuôi ngược với Greyhound. Từ Montreal qua Washington D.C. thăm bạn bè dân thủ đô nước Mỹ như các ông Dzương Ngọc Hoán, Nguyễn Tường Đằng. Từ Vancouver qua Portland thăm ông Từ Công Phụng. Từ Seattle về Vancouver sau khi cưỡi du thuyền đi Alaska thăm mấy chú gấu tuyết. Nói như vậy để thấy tôi cũng có chút kinh nghiệm khi chen vai thích cánh cùng những người không có hoặc ngại lái xế riêng.
Hai chữ giang hồ không mấy xa lạ trong đời sống của mỗi người đều thường đề cập trong thơ, văn, điện ảnh… và cũng là câu nói thường tình với cá nhân, nhóm người trong xã hội. Tác phẩm Thủy Hử ban đầu là Giang Hồ Khách Truyện, sau lấy tên là Thủy Hử vì “căn cứ địa” Lương Sơn là vùng đầm, hồ nên Thủy Hử (bến nước). Truyện nầy qua bản dịch của La Thần và Á Nam Trần Tuấn Khải, gồm 3 cuốn, năm 1973, sau đó với Tử Vi Lang nên rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Trong truyện Thủy Hử của của nhà văn Thi Nại Am (1296-1372) ở Trung Hoa vào triều Nguyên-Mông (1295-1368), kể về câu chuyện của Tống Giang triều nhà Tống, nổi dậy kéo theo “giang hồ hảo hán” gồm 108 người đến núi Lương Sơn. Gọi là anh hùng Lương Sơn Bạc.
Ở Sơn Tây, tôi là khách lạ nhưng mang tâm trạng sâu đậm như người trở về nguồn cội. Đầu tiên tôi tìm mua tấm bản đồ tỉnh lỵ nhưng không ai bán, họ chỉ dẫn địa điểm Thành Cổ rồi theo 4 hướng Đông Tây Nam Bắc của hình vuông ấy là sẽ tìm ra mọi nơi. Hướng Nam đối diện với phố Quang Trung còn gọi là Cửa Tiền, Cửa Hậu ở hướng Bắc có phố Lê Lợi và nếu đi thẳng đến cuối đường sẽ gặp sông Hồng, hướng Đông là Cửa Tả nhìn ra chợ Nghệ và cuối cùng hướng Tây hay Cửa Hữu có phố Ngô Quyền.
Buổi sáng cuối tuần, mùa đông chớm về với những cụm mây xám nhạt, lơ lửng trôi trên bầu trời California, không khí se se lạnh, tôi và Hoàng ngồi ngoài hàng hiên quán Coffee Lovers của Thành phố Hoa vàng nhìn trời hưu quạnh. Bên hai ly cà phê sữa nóng và dĩa bánh Patechaud, Hoàng nói chậm dãi, nhỏ nhẹ, kể cho tôi nghe về quê ngoại của Hoàng thời niên thiếu.
Theo thông lệ trước đây, hằng năm vào đầu tháng 9, CVKer 65 Bok Thân có tổ chức buổi tiệc gây quỹ cho địa phận Kontum. Năm nào Bok Thân cũng thành công mỹ mãn, gởi về quê nhà nhiều số tiền lớn lao dùng cho các hoạt động bác ái của địa phận. Sau dịch cúm Tàu phù, kinh tế trì trệ, dân chúng cũng ngại đám đông nên Bok Thân phải uyển chuyển tổ chức 2 năm một lần; lần này là Đêm Tình Thương lần thứ Sáu.
Memphis là thành phố lớn của tiểu bang Tennessee, nổi tiếng là một trong những cái nôi của dòng nhạc Blues & Jazz của nước Mỹ. Cách đây 4 năm, tôi lái xe đến thăm Memphis chỉ để được nghe nhạc Blues “nguyên chất” tại B.B King’s Blues Club, một trong những “việc đáng làm trong đời” đối với những người mê nhạc Jazz. Nghe nhạc Jazz ở Memphis sẽ thấy được dòng nhạc như chảy trong huyết quản của người da đen ở Miền Nam Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 10 năm nay, tôi trở lại thành phố Memphis, nhưng đó không phải là đích đến của chuyến đi. Memphis có phi trường chỉ cách Tu Viện Mộc Lan khoảng hơn một tiếng lái xe. UH, một cô bạn đồng tu đã từng cùng học với một vị thầy, cùng sinh hoạt trong một nhóm Phật tử ở Quận Cam California được chấp nhận vào ni đoàn, làm lễ xuống tóc xuất gia tại Mộc Lan. Tôi cùng một nhóm bạn nhận lời mời đến dự sự kiện trọng đại của một đời người này.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.