Hôm nay,  

Dẫn Ngoại đi sắm Tết

19/01/202319:00:00(Xem: 3492)

Truyện

 

DP-cho-hoa-Phuoc-Loc-Tho-2022-00



Chàng tên Jerry, nhưng ngoại nàng kêu chàng là thằng Rỳ. Chàng cao lêu nghêu, da trắng tóc vàng mắt xanh. Chàng hay kể với nhà nàng về bà ngoại quá cố của chàng, cũng là người Việt Nam. Qua lời kể của  Jerry, ai cũng cảm nhận được lòng yêu thương đằm thắm của chàng dành cho ngoại chàng.

 

Nàng tên Julie, nhưng ngoại nàng kêu nàng là con Lì. Nàng đứng vừa tới ngực chàng, da vàng tóc đen mắt nâu.  Julie là cục cưng của ngoại nàng. Suốt thời thơ ấu cho đến bây giờ, ngoại luôn là người hùng và luôn là vùng vịnh bình yên của nàng trong những cơn sóng gió. Đời Julie nhiều sóng gió lắm, kể miết  không hết. Sóng gió đầu tiên là việc lên năm tuổi nàng vẫn còn mặc tã. Chính ngoại là người kiên nhẫn giúp nàng vượt qua nỗi sợ hãi để vào restroom mà pee pee, poo poo. Việc ngoại cứu nguy mỗi lần nàng bị ba má phạt đứng im ở góc tường. Việc nàng bị mấy đứa trong lớp ăn hiếp, ngoại đã dắt nàng tới trường “mắng vốn”.  Việc ngoại giúp Julie và Vivian làm hòa nhau.

 

Rồi sau đó là chuyện nước mắm và Jerry. Lần đầu tiên Jerry bước vào nhà nàng, gặp mọi người đang ăn hủ tiếu giò heo. Chàng được mời ngồi vào bàn. Nhưng chàng cứ ngần ngừ rồi lấy điện thoại ra. Và bỗng dưng chàng chỉ chén nước mắm:

 

– Cái nầy thúi.

 

Ba há to miệng, mắt trợn ngược, mặt xanh lè, tưởng bị mắc cổ vì cục giò heo. Jerry xém bấm 911. Má ho đúng chín cái, trề môi dài gần chín inches. Julie khóc hu hu chạy lòng vòng quanh bàn ăn. Ngoại cười ha ha, thong thả chấm cục giò vô chén nước mắm, thong thả thưởng thức:

 

– Nó đâu rành tiếng Việt, cũng như tao đâu rành tiếng Mỹ. Rỳ nè, mai mốt con sẽ thấy nước mắm có mùi thơm. Mèn ơi, ngon quá chừng ngon Rỳ ơi! Bữa ăn không có nước mắm coi như mất ngon đó con. Ngoại dặn nè, lần sau đừng te rẹt biểu ông Gồ dịch nghe con.

 

Còn chuyện tiếng Việt của Jerry. Sau lễ đính hôn, ba hỏi Julie:

 

– Cái “dzụ” tiếng Việt của Jerry tới đâu rồi con? Ba muốn rể của ba phải nói được tiếng Việt rành rọt.

 

– Dạ khá lắm ba.

 

– À, tuyệt đối không được kêu ba là you nghe chưa!

 

– Dạ.

 

Má:

 

– Ha ha... Cô Tám mới kể với má, cô tới gặp nó về bệnh mất ngủ. Nó hỏi cô: “Cô… cô... có thích đi chụp… chụp cái... cái đầu óc không? Cô có... có thích đi gặp cái... cái ông... ông bác sĩ buồn... buồn ngủ không?” Nó lắp bắp lâu lắm mới được chừng đó. Cô Tám thấy tội nghiệp quá, bác sĩ cứ nói tiếng Mỹ đi, tui hiểu mà. Nó trả lời: “Dạ... dạ... cô làm... làm ơn kiên nhẫn với... cháu. Cháu muốn... muốn tập nói tiếng Việt để được mau cưới con Julie.”

 

Nàng:

– Má ơi! Jerry nói được vậy là giỏi rồi!

 

Má nghiêm giọng:

 

– Nhưng má muốn nó giỏi hơn để xứng đáng đã từng là học trò của má.

 

Ngoại nãy giờ ngồi im quan sát tình thế, bỗng đằng hắng rồi chậm rãi:

 

– Bây được voi đòi tiên. Tao thấy con Lì mà lấy được thằng Rỳ là có phước lắm đó.

 

Nàng chạy tới ngồi trong lòng ngoại, hun ngoại cái chụt:

 

– Hoan hô ngoại. Ngoại là số một! Ngoại nè, Rỳ kêu: “Nhoại nhoại” nghe thiệt dễ thương ngoại hén.

 

Ngoại tiếp, vẫn chậm rãi và thêm phần nhấn mạnh từng tiếng nghe rất oai:

 

– Tao thấy trong mấy đứa theo con Lì, thằng Rỳ số một, không phải vì nó là bác sĩ mà tao khen. Rỳ hiền lành, lễ phép, biết điều ăn ở. Sở dĩ trước đây tao làm thinh vì không muốn ý kiến của tao ảnh hưởng tới quyết định của con Lì. Bây hiểu chứ? Bây không thấy từ hồi đeo con Lì, tết năm nào thằng Rỳ cũng đem về nhà nầy những cành mai rất đẹp đó sao? Nhà nó tận LA, lái xe cả tiếng đồng hồ xuống đây. Chỉ có sức mạnh của tình yêu thằng Rỳ mới chịu khó như vậy. Với lại, tại sao giữa biển người mênh mông trên xứ Mỹ nầy tụi nó bỗng gặp lại nhau rồi lại thương nhau? Duyên tiền định đó nghe bây.

 

*

 

Hồi lâu rồi, một người quen giới thiệu má Julie dạy tiếng Việt online qua Skype cho Jerry. Mỗi tuần hai buổi, mỗi buổi hai tiếng. Trước màn hình, bên nầy, má nàng ở Orange County; bên kia, Jerry, trên Los Angeles. Mỗi lần má dạy, nàng hay núp sau lưng má coi Jerry học. Jerry bấy giờ chừng chín mười tuổi, (cũng cỡ tuổi nàng), nghịch kinh khủng, lười học kinh khủng. Cứ chừng mươi phút, Jerry xin đi restroom, lâu thiệt lâu nó mới quay lại học. Có bữa nó than mỏi mắt, kéo cái áo lên trùm kín đầu. Có bữa webcam bỗng ngưng hoạt động, nó biến mất tiêu. Có bữa nó đánh máy trên ô “chat” rằng nó không nghe được gì hết. Má nàng biết tỏng tòng tong trò nghịch phá của thằng nhỏ nhưng rất kiên nhẫn, vẫn tiếp tục dạy cho nó. Ừm, mà cũng tại mẹ Jerry (cha Mỹ, mẹ Việt) trả lương má khá hậu hĩnh.

 

Thời gian đầu chưa quen, Julie thỉnh thoảng phải bò ra ngoài để cười cho đã vì Jerry đọc tiếng Việt ngộ đời lắm. Giọng Jerry ngang phè phè. Dấu nặng đọc lơ lớ như không dấu. Còn dấu hỏi dấu ngã thì không biết phải tả ra sao. Má, miệng đọc, tay giơ lên giơ xuống, sang phải sang trái, kiểu như nhạc trưởng, để góp phần luyện dấu cho Jerry.

 

Lần nọ, Jerry bỗng phát hiện có đứa núp sau lưng cô giáo. Sau thoáng ngạc nhiên thú vị, thằng nhỏ méo miệng, lè lưỡi, trợn mắt chọc con nhỏ. Con nhỏ tức cái mình cũng lè lưỡi trợn mắt méo miệng chọc lại thằng nhỏ. Cô giáo đuổi con nhỏ ra ngoài cho thằng nhỏ học. Nhưng Jerry, một tràng tiếng Anh xen vài tiếng Việt, đại khái xin cô giáo cho con nhỏ ở lại, nó sẽ ngoan, sẽ chăm học.

 

Giữ đúng lời hứa, Jerry chịu khó học và làm bài tập ở nhà. Cô giáo ra luật: Hai đứa phải nói chuyện với nhau hoàn toàn bằng tiếng Việt, nếu không nói được thì làm điệu bộ. Nhờ có Julie, Jerry tiến bộ rất nhanh.             Nhưng chỉ chừng được một năm, Jerry không học nữa.

 

Năm tháng trôi qua, chuyện thằng Jerry đã đi vào quên lãng. Đâu ngờ, Jerry và Julie gặp lại nhau trong thư viện của trường UCLA. Chàng và nàng mừng mừng tủi tủi, dắt tay nhau ra ghế đá sân trường để tha hồ nhắc lại chuyện xưa. Ngồi mỏi, hai đứa nằm dài trên cỏ, say sưa cười cười nói nói đến nỗi quên cả việc phải vào lớp học. Từ đó chàng lẽo đẽo đi bên cạnh nàng, sung sướng vì lắp bắp được chút đỉnh tiếng Việt. Có lần xe nàng bị hư, chàng mừng rỡ đưa nàng về nhà. Chàng được gặp cô giáo dạy tiếng Việt mà hồi xưa chàng chỉ thấy trên màn hình máy tính.

 

Đặc biệt chàng được gặp bà ngoại của nàng. Chàng kinh ngạc tự hỏi, sao bà ngoại nàng giống bà ngoại chàng kinh khủng! Họ là chị em ruột? Chàng bèn đem tấm hình ngoại chàng cho ngoại nàng coi nhưng ngoại nàng nói không hề biết người trong ảnh.

 

*

  

Bữa đám cưới, lúc ra mắt đàng gái, Jerry nói bằng tiếng Việt một mạch suôn sẻ chứ không lắp bắp như thường lệ:

 

– Dạ thưa nhoại, dạ thưa ba má. Con cám ơn nhoại và ba má cho con con Julie. Con rất cám ơn cám ơn.

 

Tối đó, trong tiệc cưới ở nhà hàng, chú rể Jerry bỗng nhờ người hầu bàn kiếm cho chàng chén nước mắm! Chú rể, mặt hếch lên ra điều tự hào ta đây sành ăn nước mắm: “Bữa ăn không có nước mắm coi như mất nhon!” Cô dâu Julie cười toe, mặt vênh lên ra điều ta đây giỏi dạy chồng.

           

Sau tuần trăng mật, vợ chồng Julie về thăm ba má và ngoại. Bước vào cửa, Julie khoe liền:

 

– Ngoại ơi! Ba má ơi! Tết nầy Jerry sẽ hát bài Ngày Tết Quê Em để giúp vui trong chương trình ca nhạc của hội chợ Tết.

 

Mọi người há hốc. Kinh ngạc.

 

Ngoại:

 

– Có phải bài Tết Tết Tết Tết đến rồi…?

 

Julie tủm tỉm:

 

– Dạ đúng rồi ngoại.

 

– Lại cái trò nghịch ngợm hả Lì?

 

– Ngoại ơi, Jerry hát hay thiệt mà. Ông xã ròm ơi, hát cho ngoại với ba má nghe đi.

 

Jerry hí hửng ra đứng giữa nhà biểu diễn: Tết Tết Tết Tết đến rồi…            Mọi người nín cười, vỗ tay khen nức nở. Ngoại nhanh nhẹn rút một nhánh hoa trong bình đem tặng ca sĩ Rỳ. Jerry xúc động ôm hun ngoại rồi cúi gập người cám ơn khán giả. Julie tỉnh queo:

 

– Ai bị bồ đá nằm liệt giường mà nghe Jerry hát là đứng dậy ngay, đúng không ngoại?

 

Ngoại trợn mắt nhìn Julie:

 

– Cái con Lì nầy...

 

Jerry quay sang vợ, ngơ ngác hỏi:

 

– Cái con Lì nầy, bồ đá nghĩa là gì hả?

 

*

 

– Bọn con dẫn ngoại đi sắm tết nhen ngoại.

 

Má:

 

– Nghe có lý đó con. Ba má bận làm dưa món, kiệu chua... Còn chuẩn bị gói bánh tét nữa.

 

Cặp vợ chồng mới cưới đưa ngoại lên tận chợ hoa LA để ngoại lựa mai. Đó là một trong những chợ hoa lớn nhất nước Mỹ, nằm trên đường Wall, trong khu downtown LA. Ngoại luôn miệng hít hà:

 

– Mèn ơi! Chợ rộng quá chừng rộng. Bông nhiều quá chừng nhiều. Cám ơn các cháu của ngoại.

 

Rồi ngoại săm soi lựa bốn nhánh mai trĩu nụ. Hai đứa năn nỉ. Ngoại ơi, ngoại lấy thêm đào, cúc, và nhiều loại hoa khác đi ngoại. Chất đầy cả xe truck cũng được. Hoa ở đây rẻ lắm ngoại à. Chúng con tặng ngoại mà. Ngoại đừng từ chối. Ngoại ơi ngoại nhận cho chúng con vui. Thì coi như chúng con mừng tuổi ngoại. A, tiền già của ngoại hả? Thì để mừng tuổi cho bọn con. Vậy nha ngoại. Dạ, dạ lát nữa mình sẽ ghé Bolsa.

 

Sắp Tết. Khu Little Saigon tưng bừng nhộn nhịp. Đường sá chật kín xe và đầy người đi bộ. Chợ Tết ở Phước Lộc Thọ đông vui chưa từng thấy. Nắng xuân tỏa sáng khắp nơi. Tiếng Việt rôm rả khắp nơi. Nhạc xuân rộn ràng khắp nơi. Tiếng cười, tiếng nói... Các gian hàng rực rỡ sắc màu, tràn ngập các loại kẹo mứt, bánh chưng, bánh tét, trái cây...

 

Ngoại ghé ngay vào gian đầu tiên, chọn mua xấp phong bì đựng tiền mừng tuổi in chữ Việt “Chúc mừng năm mới”. Ba bà cháu hòa trong dòng người nô nức sắm Tết. Ba bà cháu đều mặc áo dài. Bà lụm cụm, chậm chạp giữa hai đứa, nhưng miệng luôn mỉm cười hạnh phúc. Julie trong chiếc áo dài màu hồng vừa vặn thân hình nhỏ nhắn. Còn Jerry lêu nghêu với chiếc áo dài màu xanh biển ngắn cũn chưa tới gối. Mỗi đứa dắt một tay bà, thỉnh thoảng hai đứa mỉm cười nhìn nhau đắm đuối. Thỉnh thoảng hai đứa nhắc nhau: “Cẩn thận kẻo ngoại bị lạc.”

 

– Trương thị Kim Chi

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.