Hôm nay,  

Tấm lòng của vị danh y tổ ngành thuốc Nam (Tiếp theo và Hết)

12/04/202315:51:00(Xem: 3351)
Truyện

Cu-Tue-Tinh

(Tiếp theo và Hết)

 

Từ khi Thiền sư Tuệ Tĩnh bắt đầu làm việc ở viện Thái Y, ai cũng tỏ vẻ nể nang, tin tưởng ngài. Họ bàn tán với nhau: “Với sự cộng tác của người thầy thuốc tài danh xứ An Nam, chắc chắn công việc của viện sẽ tiến bộ hơn”.
      Thế nhưng khi Thiền sư bắt tay vào công việc mọi người dần đâm ra thất vọng. Sống với thái độ khép kín, thụ động, rất ít nói, gần như ngài chẳng muốn tiếp xúc với ai. Cấp trên giao công việc gì ngài lặng lẽ làm công việc đó, không phàn nàn, không đòi hỏi. Khi ai hỏi đến chuyện y dược, ngài tỏ vẻ lúng túng, ấm ớ trả lời không đâu ra đâu hết. Có lần một vị thái y khó tính bực mình đã gay gắt với ngài:
      – Ngài là vị thầy thuốc nổi danh nhất nước Nam nên quí quốc mới chọn ngài sang phục vụ thiên triều. Há lẽ quí quốc đã dối trá với thiên triều sao? Vậy mà khi hỏi tới thuốc thang ngài cứ ấp a ấp úng giấu giếm như thế nghĩa là thế nào?
      Thiền sư Tuệ Tĩnh từ tốn đáp:
      – Sở nguyện của bần tăng là tu hành để giác ngộ, để cứu độ chúng sinh chứ không có mục đích nào khác. Những lúc rảnh rỗi, bần tăng có võ vẽ sưu tầm và áp dụng vài ba bài thuốc. Có lẽ vì nể bần tăng là kẻ tu hành nên các thầy thuốc ở An Nam nhường cái vinh dự đi phục vụ thiên triều cho bần tăng chứ trình độ thuốc thang của bần tăng có bao nhiêu bần tăng đã thưa bấy nhiêu chứ đâu dám dối trá.
      Suốt ba tháng làm việc ở viện Thái Y, Thiền sư Tuệ Tĩnh chỉ thỉnh thoảng tiếp xúc với một bạn đồng viện người Triều Tiên là Lý Hân. Ngoài Lý Hân, ngài không còn tiếp xúc với ai khác. Hầu như các bạn đồng viện khác cũng không còn bận tâm tới ngài nữa. Mọi người đã chấp nhận tình trạng thực tế. Làm sao ép một ông sư có trình độ y dược rất giới hạn phục vụ trong viện Thái Y tốt hơn được?
      Mãi hơn một năm sau, khi vua Minh hỏi về Tuệ Tĩnh, viện trưởng Lục Sâm cứ sự thật tâu trình. Khi ấy vua Minh mới tỏ vẻ giận dữ phán:
      – Bọn Nam man dám khi quân đến thế sao? Tuệ Tĩnh vô dụng như vậy lưu giữ y làm gì? Trẫm sẽ cho tra xét lại việc này.
      Nhưng rồi vẫn chẳng thấy việc gì xảy ra.
 
***
 
Thấm thoát Thiền sư Tuệ Tĩnh phục vụ ở viện Thái Y đã gần hai năm. Ngài đã làm việc như một viên thư lại dở hơi, kém cỏi. Bởi lẽ, thân xác ngài tuy sống ở đất Tàu nhưng gan ruột của ngài lại hoàn toàn hướng về đất Việt. Ngài không thể quên được cảnh đau khổ của đồng bào khi các trận dịch ác nghiệt quét qua xứ sở của ngài. Ngài không thể quên được cảnh đói rách của đồng bào ngài những năm bị thất mùa... Ngài càng không thể quên được cảnh những người xóm giềng tốt bụng đã cứu mạng và đùm bọc chính ngài khi ngài còn bé dại... Càng hồi tưởng ngài càng tiếc cái công trình mở rộng ngành thuốc Nam trong dân dã để cứu giúp đồng bào nghèo mà ngài từng thực hiện ở quê nhà. Đó là nguyện vọng tha thiết nhất trong đời của ngài.
      Một hôm, Thiền sư nghe các bạn đồng viện xôn xao bàn tán về chứng bệnh hiếm hoi mà Trịnh vương phi, người được vua Minh đang sủng ái nhất, mắc phải. Chính viện trưởng Lục Sâm nói ông đã gặp vài bệnh nhân mắc bệnh tương tự và các người này đã không ai thoát chết. Dù đã cố giả ngu giả dại nhưng đầu óc của một người suốt đời chuyên nghiên cứu thuốc men đã không cho phép ngài làm ngơ về một chứng bệnh lạ. Ngài đã âm thầm lắng nghe, theo dõi. Hôm sau ngài vẫn tiếp tục nghe các bạn đồng viện nói về bệnh tình của vương phi với vẻ căng thẳng hơn. Hôm kế tiếp, Minh đế đã triệu viện trưởng Lục Sâm vào triều. Khi viện trưởng trở về ông liền triệu tập các thái y lại rồi tuyên bố:
      – Nguy to rồi! Thánh thượng hết sức giận dữ vì tình trạng sức khỏe của Trịnh vương phi. Nếu vương phi có bề nào, chắc thánh thượng sẽ trút tội xuống đầu bọn ta. Hôm nay ngay tại triều, ngài đã mắng bọn ta là một đám ăn hại vô dụng! Chúng ta đã cố gắng hết sức nhưng gặp phải trường hợp lạ đời này biết làm sao? Giờ ta chỉ còn biết nhờ trời thôi. Tôi e lần này trong bọn ta sẽ có một số bị bãi việc, trước hết có thể là tôi.
      Mọi người đều lắc đầu nhìn nhau lo lắng. Giữa lúc bầu không khí căng thẳng, ngột ngạt đang phủ trùm cả phòng hội bỗng một người lên tiếng:
      – Thưa viện trưởng, hay thử yết thị kêu gọi các danh y trong thiên hạ xem ai có khả năng chữa cho vương phi được không?
      Viện trưởng Lục Sâm lắc đầu:
      – Không kịp đâu. Bệnh vương phi đã quá nguy ngập. Tôi nghĩ bệnh này khó có ai chữa nổi. Chúng ta hãy cố gắng vài ngày nữa. Tới đâu hay tới đó. Nếu có gì xảy ra thì cũng do số phận cả. Tôi báo cho các đồng viện biết chuyện này để chuẩn bị tinh thần thôi. Bây giờ thì các đồng viện có thể trở về với công việc của mình.
      Thấy Lý Hân cũng là một trong những thái y hay ra vào chẩn bệnh trong cung, Thiền sư bèn đến hỏi thăm Lý Hân. Lý Hân cũng thiệt tình tả lại bệnh trạng của Trịnh vương phi cho ngài hay. Nghe xong ngài lộ vẻ đăm chiêu một hồi...
      Khi về nhà, Thiền sư gọi sa di Thiện Ứng bảo:
      – Con hãy lấy hộp thuốc viên của thầy ra cho thầy coi.
      Lát sau Thiện Ứng mang một cái hộp gỗ đến cho ngài. Ngài mở hộp lấy ra một chiếc túi gấm nhỏ màu đỏ rồi mở miệng túi để trút vật bên trong vào một cái bát. Đó là những viên thuốc tễ màu nâu nhỏ cỡ cái trứng của giống chim sâu. Ngài đếm được cả thảy 40 viên. Ngài bỏ 20 viên trở lại túi gấm, sai Thiện Ứng đem cất. Sau đó ngài bảo Thiện Ứng gói 20 viên còn lại giao cho ngài. Xong, ngài hỏi Thiện Ứng:
      – Con có nhớ những viên thuốc này chế bằng thứ gì không?
      – Dạ, con nhớ. Nhổ cây bồ trất rửa thật sạch, băm nhỏ cả thân lẫn rễ, trộn với lá của nó đem nấu. Sau đó chắt lấy nước, chưng cho kẹo đặc lại rồi hòa với mật ong theo một lượng ngang nhau để đúc thành viên.
      – Con nhớ kỹ lắm. Thuốc này chế bằng nước bồ trất với mật ong. Con biết dùng để chữa bệnh gì không?
      – Dạ, con không biết. Con chỉ nhớ kỹ nhờ hôm đó thầy sai chính con băm nhỏ thân và rễ cây rồi canh chừng nồi nấu cũng khá lâu. Cây bồ trất này ở nước mình khá nhiều.
      – Ừ, ở nước mình nhiều nhưng ở phương Bắc hiếm lắm vì giống nó không chịu lạnh.
      Hôm sau ngài đem gói thuốc vào gặp Lục viện trưởng. Viện trưởng ngạc nhiên nói:
      – Hôm nay ngài tự động vào thăm tôi hi vọng ngài đem tin lành cho tôi?
      – Không dám. Bần tăng nghe viện trưởng đang gặp khó khăn nên vào đây cốt để vấn an ngài thôi.
      Lục viện trưởng cười cười:
      – Tôi biết mà. Ngài đã vào đây tất là ngài đã có chủ ý giúp tôi. Xin ngài cứ thẳng thắn cho ý kiến. Tôi đang nóng lòng chờ nghe những lời tốt đẹp của ngài đây.
      – Viện trưởng đã nóng lòng thì bần tăng cũng không dám chần chờ nữa. Bần tăng vào đây cũng chỉ vì có thiện ý với viện trưởng. Ngài có thể cho bần tăng biết sơ về bệnh tình của vương phi không?
      Viện trưởng liền thuật lại bệnh tình của vương phi cho Thiền sư nghe rồi nói thêm:
      – Bệnh này tôi đã gặp vài lần rồi và tôi chưa thấy người nào qua khỏi được. Nếu ngài cứu được ngài muốn gì tôi cũng chịu.
      Thiền sư Tuệ Tĩnh hé một nụ cười:
      – Nếu trị lành bệnh, ngài viện trưởng xin Minh đế cho bần tăng về nước được không?
      – Tôi xin hứa sẵn sàng giúp ngài. Tuy quyền quyết định do Minh đế nhưng tôi rất hi vọng ngài sẽ chấp thuận vì ngài sủng ái Trịnh vương phi lắm.
      Thiền sư Tuệ Tĩnh trao gói thuốc cho Lục viện trưởng rồi nói:
      – Đây là gói “Tản Viên thần dược”, nó không kỵ bất cứ loại thuốc nào. Ngài cho vương phi uống thử 2 viên xem sao. Nếu thấy có dấu hiệu tốt, nửa ngày sau ngài cho uống tiếp 2 viên khác. Nếu vẫn thấy kết quả khả quan, ngài cho ngưng hết các loại thuốc vương phi đang uống mà chỉ cho bà uống một loại thuốc này thôi. Có thể trong ba bốn ngày bệnh sẽ dứt.
      Lục viện trưởng lộ vẻ vui mừng:
      – Trời ơi, thế thì ngài là vị cứu tinh của Trịnh vương phi rồi! Ngài cũng còn là ân nhân của tôi nữa. Nếu vương phi có mệnh hệ nào chắc tôi cũng không còn ngồi ở cái ghế này được! Nhưng ngài có thể cho tôi biết sơ về xuất xứ của gói “Tản Viên thần dược” để lỡ khi hoàng thượng hỏi đến tôi trả lời được không?
      – Thưa ngài viện trưởng, trước đây, khi bần tăng còn ở nước Nam, có gặp trường hợp vợ của một ông trưởng giả cũng mắc chứng bệnh như Trịnh vương phi bây giờ. Các thầy thuốc tại địa phương đều chạy hết. Quá tuyệt vọng và quá thương vợ, ông ta bèn mời một số tăng nhân đến nhà cầu an cho vợ trước khi bà giã từ cõi thế. Bần tăng dẫn đầu số tăng nhân này. Trong lúc chúng tăng đang cầu nguyện bỗng có một vị dị nhân tự xưng ở núi Tản Viên đến xin gặp gia chủ. Gia chủ thấy hình dung cổ quái của vị dị nhân quá sợ liền nhờ bần tăng cùng ông ra đón tiếp. Vị dị nhân bèn hỏi chủ nhân về bệnh tình của bà vợ. Nghe xong, vị dị nhân lấy trong túi ra ba liều thuốc mỗi liều 20 viên với cái toa có ghi sẵn cách dùng trao cho bần tăng và dặn: “Nhà sư hãy giúp gia chủ cho bệnh nhân uống. Chỉ cần cho uống một liều là bệnh lành. Hai liều còn lại nhà sư hãy giữ lấy sẽ có ngày dùng đến”. Vị dị nhân dặn xong bèn cáo từ ra đi. Gia chủ mừng quá rối rít cảm tạ và xin dị nhân cho biết danh tính nhưng vị dị nhân đã vùn vụt đi mất. Bần tăng cứ theo lời dặn, giúp chủ nhân cho bà vợ ông ta uống hết một liều. Quả nhiên khi uống xong liều thuốc ấy thì bà lành bệnh. Vì không rõ nguồn gốc liều thuốc nên bần tăng gọi tạm nó là “Tản Viên thần dược” vậy. Chuyện này xảy ra đã lâu. May mắn bần tăng còn giữ được 2 liều thuốc của vị dị nhân ấy, cứu được ai thì cũng là cái duyên của người đó thôi. Nếu ngài viện trưởng dùng nó mà cứu được Trịnh vương phi xin cứ coi như đó là nhờ sự mát tay của ngài viện trưởng cũng được. Làm sao gặp được vị dị nhân nữa mà truy nguyên?
      Nghe xong, Lục viện trưởng cám ơn Thiền sư Tuệ Tĩnh rồi vội vã vào cung thăm bệnh Trịnh vương phi.
      Ba ngày sau Lục viện trưởng mời Thiền sư Tuệ Tĩnh vào phòng vui vẻ nói:
      – “Tản Viên thần dược” quả đúng là thần dược! Bệnh vương phi mười phần đã lành hết tám, Minh đế vui mừng lắm. Hi vọng nguyện ước hồi hương của ngài sẽ được thỏa mãn. Nhưng để chắc hơn, đề nghị với ngài cần thêm một tiếng nói nữa sẽ có sức mạnh hơn. Số là hoàng thân Nhân Vinh nghe tin vương phi đã thoát cơn hiểm nghèo ông ấy liền tìm tôi thăm hỏi. Tôi vô tình cứ sự thật trả lời. Hoàng thân liền níu lấy tôi, nài nỉ phải xin cho ông ta liều thuốc còn lại. Hóa ra Nhân Vinh phu nhân cũng đang mắc một chứng bệnh như thế. Tôi nghĩ ngài là kẻ tu hành có sẵn thuốc quí mà gặp người bệnh hiểm nghèo đang cần thuốc đó chắc ngài không nỡ làm ngơ. Nếu bệnh của Nhân Vinh phu nhân được chữa lành chắc chắn hoàng thân sẽ đội ơn ngài mà hết lòng báo đáp. Tiếng nói của hoàng thân chắc chắn giá trị hơn tiếng nói của tôi nhiều. Ngài nghĩ sao?
      Sư Tuệ Tĩnh chỉ biết cười rồi đáp:
       – Ngài đã nói như vậy bần tăng làm sao làm sao không nghe được! Ngày mai bần tăng sẽ đem thuốc trao cho ngài.
      Mười ngày sau hoàng thân Nhân Vinh đích thân đến thăm Thiền sư Tuệ Tĩnh và hết lời cảm tạ. Hoàng thân hứa sẵn sàng giúp tất cả việc gì ngài cần trong phạm vi khả năng của ông. Thiền sư lại ngỏ ý nhờ hoàng thân xin vua Minh cho ngài được hồi hương. Hoàng thân hứa sẽ hết lòng giúp nhưng xin đợi một thời gian.
      Một hôm Thiền sư vừa mới ở viện về nhà bất ngờ Lục viện trưởng lại đến thăm. Sau khi chào hỏi nhau, Lục viện trưởng vui vẻ nói:
      – Hôm nay tôi đến thăm ngài mục đích báo với ngài một tin vui. Hoàng thân Nhân Vinh và tôi đã xin yết kiến Minh đế để trình bày về việc xin hồi hương của ngài. Minh đế đã rất khen ngợi ngài và hứa sẽ tưởng thưởng ngài thật xứng đáng. Minh đế cũng hứa sẽ cứu xét vấn đề hồi hương của ngài sớm. Chúng tôi thành thật chúc mừng ngài. Từ hôm nay ngài khỏi bận tâm với công việc ở viện Thái Y nữa. Ngài cứ thoải mái ở nhà để lo việc kinh kệ. Hi vọng mọi việc sẽ ổn cả. Xin cứ tạm thời ở lại viện tôi để chờ ngày đón nhận Thánh ân.
 
***
 
Chừng một tháng sau, Minh đế đã cử chính hoàng thân Nhân Vinh mang chiếu chỉ đến phong cho Thiền sư Tuệ Tĩnh tước hiệu “Đại Y Thiền Sư” và cho phép ngài xây dựng một ngôi chùa lớn nhỏ tùy ý, bất cứ nơi nào trên đất Giang Nam để tu hành. Tất cả mọi chi phí sẽ được Minh triều đài thọ.
      Sau khi bái tạ ơn vua xong, Thiền sư hỏi hoàng thân Nhân Vinh:
      – Như vậy là Minh đế không nói gì đến điều thỉnh cầu của bần tăng cả?
      Hoàng thân Nhân Vinh đáp:
      – Có chứ. Minh đế bảo việc đó sẽ giải quyết sau và hoàn toàn tùy thuộc vào Thiền sư.
      – Thưa hoàng thân, bần tăng thật tình chưa rõ ý của Minh đế. Chính bần tăng đã xin hồi hương mà?
      – Minh đế cho biết, sau này muốn hồi hương, Thiền sư chỉ cần đáp ứng một điều kiện do triều đình đưa ra là sẽ được thỏa mãn ngay.
      – Triều đình yêu cầu bần tăng làm gì?
      – Triều đình không tin “Tản Viên thần dược” đó do vị dị nhân nào tặng hết. Triều đình nghĩ thứ thần dược ấy do chính Thiền sư bào chế ra. Nay chỉ cần Thiền sư cho viện Thái Y biết vật liệu và công thức bào chế loại thần dược ấy là mọi việc sẽ tốt đẹp. Hễ hôm nay Thiền sư thực hiện điều kiện ấy thì hôm sau sứ giả của thiên triều sẽ đưa Thiền sư trở về cố quốc. Xin Thiền sư tự quyết định lấy.
       Sa di Thiện Ứng đứng hầu trà nghe hoàng thân Nhân Vinh nói vậy nét mặt sáng rỡ lên, sung sướng nhìn Thiền sư. Nhưng chú vô cùng kinh ngạc khi thấy Thiền sư lắc đầu:
       – Mô Phật! Như vậy là Minh đế nhất quyết không cho bần tăng hồi hương rồi! Khả năng của bần tăng bao nhiêu mà bào chế được loại thần dược ấy? Triều đình đã không tin lời bần tăng đành chịu thôi. Bần tăng xin cám ơn hoàng thân đã hết lòng giúp đỡ bần tăng trong việc này.
      Hoàng thân lộ vẻ buồn rầu:
      – Thật đáng tiếc. Chúng tôi đã mang ơn của Thiền sư rất lớn. Chúng tôi quyết đợi dịp khác khi Minh đế vui vẻ sẽ cố xin cho Thiền sư được thỏa nguyện chúng tôi mới đành lòng! Cứ tạm gác chuyện đó lại đã. Còn bây giờ việc xây dựng chùa Thiền sư tính sao?
      – Thưa hoàng thân, bần tăng chỉ cần một ngôi chùa nhỏ là đủ. Trước đây, trên đường sang Yên Kinh, khi đi qua phủ Thiệu Hưng bần tăng tình cờ thấy có ngọn núi Điểu Sơn cảnh sắc tươi tốt, xin thánh thượng ban cho bần tăng một ngôi chùa nhỏ ở đó được không?
      – Dĩ nhiên là được. Thiền sư muốn đặt tên chùa là gì?
      – Thưa hoàng thân, nếu cho phép chọn tên bần tăng sẽ đặt tên Việt Điểu Tự?
      – Thiền sư yên tâm. Chừng ba bốn tháng nữa Thiền sư sẽ có Việt Điểu Tự.
      Sau khi hoàng thân đã ra về, sa di Thiện Ứng liền hỏi Thiền sư:
      – Tại sao hoàng thân cho biết điều kiện để thầy trò ta được hồi hương dễ dàng như vậy mà thầy lại từ chối? Khi họ biết cách bào chế loại thần dược đó họ sẽ bào chế ra nhiều để cứu thêm nhiều bệnh nhân càng tốt chứ? Hay thầy ngại Minh đế sẽ lật lọng?
      Thiền sư Tuệ Tĩnh cười buồn:
      – Con còn trẻ quá nên có nhiều vấn đề con chưa hiểu thấu. Không phải thầy sợ Minh đế lật lọng đâu. Nhưng con phải biết, loại thần dược đó bào chế từ cây bồ trất. Giống bồ trất lại chịu nóng mà không chịu lạnh nổi. Vì thế mà ở phương Bắc rất hiếm giống cây này. Như con đã biết, giống cây này ở nước ta lại có khá nhiều. Người Minh rất tham lam, khi họ đã biết cách bào chế “Tản Viên thần dược”, họ sẽ cày nát nước Nam ta để tìm bồ trất. Khi đó con biết cuộc sống của dân ta sẽ như thế nào không? Dù họ không cố ý xâm lăng, sớm muộn nước Nam cũng mất vào tay họ thôi! Cũng may những viên thuốc ta chỉ mới bào chế được mấy liều và mới dùng thử cho mấy người đều có kết quả tốt nhưng chưa kịp phổ biến giữa quần chúng. Hiện giờ thứ thuốc đó coi như đã mất hết tăm tích! Thật sự nó sẽ biệt tích vĩnh viễn! Tuy rủi nhưng lại hóa may cho dân tộc Việt! Từ nay hãy quên hẳn vụ bào chế thuốc lần đó đi!
      – Tiếc quá, bao nhiêu công sức nghiên cứu, bào chế thứ thuốc thần diệu đó của thầy giờ đành bỏ hết?
      – Đành vậy con ơi. Nếu để người Minh nắm được cái công thức và nguyên liệu chế tạo thứ thần dược ấy nước Nam sẽ không cách nào tránh khỏi tai họa đâu! Thầy không muốn mắc tội với tổ tiên, nòi giống.
 
***
 
Sau mấy lần sai hoàng thân Nhân Vinh lẫn viện trưởng Lục Sâm thuyết phục Đại Y Thiền sư Tuệ Tĩnh trao đổi bí quyết bào chế “Tản Viên thần dược” để được hồi hương không kết quả, Minh đế bèn cho Đại Y Thiền sư về trụ trì ngôi chùa mới cất mang tên “Việt Điểu Tự” trên ngọn núi nhỏ Điểu Sơn ở phủ Thiệu Hưng như ý muốn của Thiền sư. Các khoản chi phí về lương thực, y phục, dầu đèn và các thứ vật dụng linh tinh khác tại chùa đều được nhà nước đài thọ. Lúc bấy giờ Thiền sư đã vào tuổi sáu mươi. Ngài không còn được khỏe mạnh, bén nhạy như trước nhưng vẫn cần cù, chăm chỉ làm việc. Nhận chùa xong, ngài dẫn sa di Thiện Ứng đi quan sát chung quanh một vòng rồi bảo:
      – Ở đây cảnh vật tươi tốt, xa khu dân cư nên cũng khá thanh tịnh, rất thuận lợi để thầy trò ta tập trung ý chí vào việc tu hành.
      Thấy sa di Thiện Ứng có vẻ đăm chiêu, Thiền sư tiếp:
      – Bây giờ ngõ hồi hương đã bị bít, lối vào rừng thuốc cũng vô phương, thầy trò ta chỉ còn đường yên tâm tu học thôi!
      Từ đó, Thiền sư cùng Thiện Ứng ngày ngày chuyên lo việc dâng hương niệm Phật, đọc sách để nghiên cứu giáo lý. Những khi cảm thấy tinh thần không thoải mái Thiền sư lại bảo Thiện Ứng dẫn ngài dạo quanh ven rừng để giải trí. Một hôm Thiện Ứng hỏi ngài:
      – Thầy có vẻ thích thưởng ngoạn cảnh rừng rú lắm?
      – Khi được trông thấy cảnh rừng rú, được nghe tiếng nước suối chảy róc rách, được nghe tiếng chim kêu vượn hót là khi ta cảm thấy gần gũi với quê hương, đất nước mình nhất. Ta rất sung sướng với những cuộc đi dạo thế này.
      – Bạch thầy, vậy là hình ảnh đất nước, quê hương cũ lúc nào cũng canh cánh trong lòng thầy?
      – Đúng. Ta đã trải hơn năm mươi năm sống gắn liền với quê hương, đất nước thân yêu, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của ta, làm sao mà quên được? Thật tình hằng đêm ta vẫn thả mộng hồn về đất nước cũ, xúc động đến nhiều khi tỉnh dậy nước mắt còn nhạt nhòa...
      – Bạch thầy, lòng thầy luôn thiết tha hướng về cố quốc như vậy làm sao mà chịu đựng mãi được? Con thấy gần hai năm thầy trò mình về Việt Điểu Tự, Minh triều chẳng hề có một hành vi nào gọi là theo dõi cả. Chính quyền địa phương cũng chẳng hề dòm ngó đến thầy. Chắc họ nghĩ thầy đã già rồi, không thể làm gì gây phiền cho họ nên họ hết quan tâm rồi. Hay con tìm cách đưa thầy về quê cũ để sống những ngày cuối đời?
      Thiền sư bỗng giật mình nói với Thiện Ứng:
      – Sao con có ý nghĩ khờ dại đến thế? Bây giờ thì có vẻ như Minh triều chẳng quan tâm gì đến thầy trò ta thật, nhưng nếu khi thầy trò ta biến mất con có biết họ sẽ phản ứng ra sao không? Không phải họ sợ thầy trò ta đâu! Nhưng họ sẽ lấy sự biến mất của chúng ta để sách nhiễu, để làm khó làm dễ nhà Trần, không khéo họ lấy đó làm cái cớ tốt để thôn tính cơ nghiệp nhà Trần nữa! Con phải nghe lời ta dặn, ngay cả khi ta đã tịch rồi, con không được tự ý tìm cách trở về cố quốc vì con sẽ không liệu được hậu quả về việc làm của con đâu!
      – Cám ơn thầy đã khai ngộ cho con. Con xin hứa ghi nhớ mãi lời thầy!
 
***
 
Chừng ba tháng sau, cũng trong một lần dạo chơi như thế, Thiền sư đã vô tình vấp phải rễ cây nên bị té sấp một phát hơi mạnh. Sa di Thiện Ứng vội cõng ngài về chùa để săn sóc thuốc men. Sau khi đã uống thuốc và sai Thiện Ứng thoa bóp, thấy không có biểu hiệu gì đáng ngại, ngài vẫn gắng ngồi tụng kinh niệm Phật. Sáng hôm sau ngài vẫn tiếp tục làm việc. Không ngờ khn gần trưa ngài gọi Thiện Ứng lại bảo:
      – Thầy đã lầm lẫn rồi! Thầy tự biết thầy sẽ không còn sống được bao lâu nữa! Sau khi thầy tịch, trên mộ bia của thầy con nhớ phải khắc một câu “Sau Này Có Ai Về Nước Nam Cho Tôi Về Với”. Con chỉ làm vậy là đủ chứ không nên tìm cách đem thầy về nước Nam. Con phải ở lại đất Tàu để tu hành tới nơi tới chốn thay thầy! Con phải nhớ đấy!
      Sa di Thiện Ứng vừa kinh ngạc vừa hốt hoảng rơi nước mắt:
      – Bạch thầy con xin hứa. Nhưng thầy chưa đến nỗi nào đâu!
      Ai ngờ Thiền sư đã nói đúng: Ngày hôm sau thì ngài tịch! Đám tang của ngài được tổ chức rất đơn giản. Theo lời dặn của Thiền sư, sa di Thiện Ứng đã lập mộ bia cho ngài đã khắc đậm câu “Sau Này Có Ai Về Nước Nam Cho Tôi Về Với”.
 
***
 
Gần ba trăm năm sau, dưới đời Lê Hy Tông, tiến sĩ Nguyễn Danh Nho đi sứ sang nhà Thanh (1691), cũng đi qua phủ Thiệu Hưng, tình cờ nghe được chuyện ngôi mộ của Đại Y Thiền sư Tuệ Tĩnh, ông liền ghé thăm. Nguyễn Danh Nho cũng người làng Nghĩa Phú, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Quá xúc động trước nỗi lòng của vị đồng hương tiền bối, Nguyễn Danh Nho đã sao lục văn bia của Thiền sư rồi thuê thợ khắc vào một tấm đá khác để mang về nước. Tương truyền khi tấm bia được chở về tới ranh giới hai làng Văn Thai và Nghĩa Phú bất ngờ thuyền bị chìm. Dân hai làng tin nơi đó là đắc địa nên đã cho dựng tấm bia của Thiền sư ở địa điểm ấy gọi là Đền Bia.
      Thiền sư Tuệ Tĩnh là người Việt đầu tiên chủ trương “Nam Dược Trị Nam Nhân”, ngài đã dày công nghiên cứu, khai thảc dược tính của các loại cây cỏ để bào chế thuốc chữa bệnh, ngài cũng dạy dân phép giữ vệ sinh để phòng bệnh. Các công trình nghiên cứu của ngài đều được ghi chép lại để truyền cho người đời sau nên ngài cũng được tôn là ông tổ của ngành thuốc Nam.

 

Ngô Viết Trọng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi không phải cậu trai học giỏi nên mãi đến năm mười ba tuổi tôi mới thi đậu vào trường Bưởi. Tôi thi đậu nhờ bố tôi chạy chọt nhờ vả người quen, chứ sức tôi thì tôi biết mình chẳng bao giờ được vào học cái trường trung học danh tiếng ấy...
Án Tử (Án Anh) là Tướng quốc của nước Tề thời Đông Châu. Ông người thấp nhỏ nhưng trí óc cực kỳ thông minh, đầy mưu lược. Người đánh xe cho ông lại là một người cao lớn, dềnh dàng. Anh này rất hãnh diện vì được làm công việc đánh xe cho vị Tướng quốc tài giỏi này. Thường ngày anh ta hay cầm ngọn roi ngựa trên tay, đi đâu cũng hò hét nạt nộ om sòm...
Chiều nay, Vinh ăn cơm sớm để đi họp tổ dân phố. Đường từ nhà đến trường tiểu học, nơi được chọn làm địa điểm hội họp, phải đi qua chợ Tròn. Quận lỵ nhỏ bé này có hai cái chợ không có tên, để phân biệt người ta gọi là chợ cũ và chợ mới, hay theo hình dạng là chợ dài và chợ tròn. Hai cái tên sau được ưa chuộng hơn nên lâu ngày thành tên chính thức. Chợ Tròn, là một phần của cư xá nhân viên nhà máy, được xây cất hình tròn với mái che vành khăn bằng bê tông rất đẹp, có bán gần đầy đủ các thứ cho nhu cầu ăn uống và tiêu dùng hàng ngày. Chợ tuy nhỏ nhưng nằm ở vị trí thuận tiện, chung quanh là đất trống rộng rãi, phố xá khang trang nên sinh hoạt có phần thịnh hơn chợ dài nằm trên liên tỉnh lộ, cách đó chỉ hơn một cây số.
Ngày 30 tháng 4 lại đến gần, chúng ta lại được đọc những câu chuyện kể hay được viết lại về những chuyến vượt biển hiểm nguy đi tìm cái sống trong cái chết. Những hình ảnh đau thương lại tràn về trong tâm khảm của những thuyền nhân như chúng ta. Riêng tôi, ngoài những lo sợ, những kinh hoàng bị bắn, bị rượt đuổi, tôi xin viết lại một câu chuyện buồn mà vẫn phải… cười, gọi nôm na là chuyện buồn cười...
Mùa lễ Phục Sinh, đám con nít gặp nhau ở nhà ông bà Ngoại, vui mừng tở mở. Đêm nào chúng cũng thức khuya lắc, khuya lơ. Sáng dậy trưa trật, trưa trờ. Mở mắt, mở miệng, như bầy tằm ăn rỗi...
Tôi vừa nhận được thư con gái báo cháu trai ngoại của tôi sẽ dự lễ tốt nghiệp đại học vào tháng sáu, mời mẹ và bố dượng về tiểu bang Cali dự lễ, con sẽ mua vé máy bay và bố mẹ sẽ về nhà con ở hai tuần chơi với cháu trước khi cháu tiếp tục đi học xa. Cầm trong tay tấm thiệp mời màu xanh lá cây nhạt, mắt tôi nhòa lệ nhìn hình cháu trai hai mươi bốn tuổi trong y phục sinh viên tốt nghiệp...
Bà luôn ở cùng chúng ta, vì trong đời sống này có ai mà không một lần đi chụp quang tuyến X? Đi chữa một cái răng đau, nhổ răng khôn. Đi chụp phổi, đi soi bao tử fribroscopie, hay đơn giản nhất là té ngã, cũng phải đi cà nhắc tới imagerie médicale rọi tia X-quang xem xương bị tổn thương ra làm sao. Đơn giản mà là vậy, bác sĩ đâu có chữa bệnh lơ mơ, phải thấy rõ, thì đó là chúng ta sống và nhiều lúc phải nương tựa vào những tìm kiếm và phát minh của bà, không có bài bản chụp quang tuyến cuộc đời gắn liền với bệnh e gặp nhiều khó khăn...
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành-trụ-hoại-không. Phàm đã sanh ra làm người thì ai ai cũng có bệnh, không nặng thì nhẹ, không nhiều thì ít, không lúc này thì lúc khác; không phải đến lúc lão mới bệnh...
Sau khi thăm thú và chiêm ngưỡng những tượng đài kỷ niệm trong quần thể kiến trúc lịch sử, những bảo tàng viện, những vườn cây (Botanic garden) và chim muông ở trung tâm Thủ đô, chúng tôi lên xe tiến thẳng về Mount Vernon, trang trại của Tổng thống George Washington, nơi ông đã sống ở đây trong lúc sinh thời. Trang trại được toạ lạc trên một ngọn đồi thơ mộng bên dòng sông Potomac. ..
Nói về món ăn thuần túy ở Việt Nam, mỗi miền nổi tiếng với đặc sản riêng, khi gọi tên món ăn đó gợi lên hình ảnh của nơi nào rồi. Với món phở, theo thời gian đã đi vào văn chương qua các ngòi bút nhà văn, nhà thơ từ thập niên đầu của thế kỷ XX trong các tác phẩm...
Sau ba tuần ở trại nhỏ Tha Luông miền Nam nước Thái, nhóm tàu chúng tôi được chính thức nhập trại Panatnikhom vào giữa tháng 1 năm 1990. Cuộc sống dần trở nên quen thuộc nơi trại tỵ nạn, mỗi ngày trôi qua như mọi ngày...
Mặt đất khô cứng dưới lưng cô. Trong bóng tối, cô không nhìn rõ khuôn mặt của gã. Nhưng cái mùi của gã thì nồng nặc bao trùm lấy cô, một cái mùi tổng hợp của mồ hôi, thuốc lá, gia vị món ăn… khiến cô muốn lộn mửa. Và thân hình to béo của gã đè nặng lên người cô...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.