Hôm nay,  

Áo gấm về làng

09/05/202318:36:00(Xem: 3861)
Truyện

tet-nguyen-dan

 

1.
Phải trở về quê một chuyến xem thử chỗ ngồi bên gốc cây bàng trong khuôn viên chợ Quán Rườn nay có còn không? Chắc còn, và chẳng có gì thay đổi. Bởi vì Hạo đã ngồi ở đó suốt mười hai năm, ngày ngày ngắm ông đi qua bà đi lại, mỗi khi có ai xe đạp bị hư, bể ruột, cong niềng, trật ốc, dắt lại sửa thì anh mừng húm lên, bởi vì anh sẽ có được chút tiền công mang về cho ba đứa con đang đợi ở nhà.
     Từ ngày ra khỏi trại tập trung, Hạo trở về đây, ngồi dưới gốc cây bàng này, sửa xe đạp. Dù ai có nói ra nói vào, "Cha Hạo đã một thời là thiếu tá, từng làm tiểu đoàn trưởng chỉ huy lính đánh địch kinh hoàng, từng một thời có xe díp cần câu, có cận vệ chạy rần trời, thế mà nay thất thế, mười năm ở tù về, chả lại dám ngồi dưới gốc cây bàng sửa xe, thằng cha khùng, làm mất mặt bầu cua sĩ quan", Hạo nghĩ, "Có gì mà mất mặt, đi ở tù, hốt phân tươi tưới rau, dòi bọ bò lổn ngổn, đi đốn gỗ, cuốc đất, tăng gia rau xanh, làm 'tà lọt' cho vệ binh, cho quản giáo, suốt mười năm, mà chả có lấy một xu tiền công, còn ăn đói nhịn khát, mặc rách. Bây giờ về, làm việc để kiếm miếng cơm chứ có gì mà mắc cỡ". Có người cho Hạo đã bị khùng nặng, ngơ ngơ ngác ngác. Họ cho rằng, sau khi đi tù về, vợ đã đi theo người khác, Hạo phải nuôi ba đứa con, nên Hạo bị "mát dây" là chuyện bình thường. Hạo lại nghĩ khác. Mình làm ăn lương thiện thôi, đem mồ hôi đổi lấy bát cơm, có gì mà mặc cảm.
     Bây giờ thì anh quyết định trở về thăm quê, sau năm năm ở Mỹ. Các con anh đã lớn, đã đi làm, anh yên tâm và thấy mình may mắn. Năm năm anh đã trút bỏ đi một phần cái thân thể gầy còm ốm nhách của ngày ra đi. Anh đã mập lên, nước da hồng hào hơn, phổng phao hơn. Người ta nói vật chất đã làm thay đổi con người, đúng vậy, dinh dưỡng đầy đủ của xứ Mỹ đã biến anh ra một con người khác. Anh đã làm hết bổn phận với các con, nay anh phải tự lo lấy phần đời còn lại, cho nên anh dự định, sẽ tìm về quê, thăm mồ mả cha mẹ, ông bà, tổ tiên, nhưng cốt lõi trong lòng anh là muốn về quê cưới một người vợ, rồi sẽ bảo lãnh vợ sang đây sống cùng anh, cho đời anh đỡ đi phần hiu hắt.

2.
Hạo đi chuyến bay China Airline, mang theo hai vali quần áo cũ mà các con đã mua ở chợ trời, định sẽ đem về cho bà con ở quê nhà, cùng với bảy ngàn đồng anh gom góp để dành suốt mấy năm ròng. Anh nghĩ mình sẽ chi tiêu dè sẻn, cho anh cho chị, cho bà con mỗi người một ít, còn lại anh sẽ làm mộ cho cha mẹ anh thật tươm tất. Và khi kiếm được người đàn bà nào vừa ý như người chị hứa sẽ dắt cho anh xem mặt mấy mối, anh sẽ đem số tiền còn lại làm quà cưới, tiệc cưới, chắc cũng tạm đủ, vì quê anh là một xóm quê nghèo, cuộc sống lam lũ, dân chúng không ăn xài bao nhiêu.
     Chị Nhường đón anh ở sân bay Tân Sơn Nhất với nước mắt đầm đìa. Tánh của chị anh thật giống mẹ anh ngày xưa, ngày anh đi lính, đi hành quân, lúc nào mẹ cũng cúng vái khấn nguyện, và cuối cùng là khóc. Nước mắt vui, nước mắt buồn đều có cả. Bây giờ mẹ mất rồi mẹ để lại cho chị Nhường hồ nước mắt ấy. Ngày anh cùng các con khăn gói đi Mỹ, chị khóc, bây giờ anh trở về thăm chị, chị cũng khóc.
     Anh loay hoay với mớ hành lý đem về. Ở trên phi cơ, bà con đi về kháo nhau, cửa hải quan này cho 5 đô, cửa công an kia cho 5 đô, cứ thế coi như đấm nắm xôi vào miệng chúng cho qua truông suôn sẻ. Hạo cũng làm theo, nhưng anh không ngờ bọn cò mồi đứng chỗ lấy hàng, bọn nó chỉ lấy tay chỉ chỏ hay lấy tay xách hành lý cho khách mà không ai nhờ, cuối cùng thì bọn chúng xin tiền, anh phải móc hầu bao nhưng lòng cứ ấm ức. Đến khi đẩy xe ra cửa phi trường Hạo mới thấy như thoát nợ. Chị Nhường nhận ra Hạo ngay khi anh vừa mới ra khỏi khu cách ly. Chị vẫy tay lia lịa và kêu: "Hạo, Hạo, cậu Hạo."
     Hạo đến chỗ chị và ôm lấy chị. Năm năm mà chị già đi quá, mái tóc lưa thưa bạc, mắt có những vết nhăn, anh ứa nước mắt, chị khóc. Hai chị em đi ra chỗ chiếc taxi đã được chị thuê đậu phía bên ngoài. Hai chị em về khách sạn nghỉ một đêm, ngày mai mới đáp xe tốc hành thuê bao về quê nhà.

3.
Ngày Hạo đi, quê của anh nghèo khổ, nay anh trở về quê vẫn không thay đổi gì mấy. Hai cây cầu có tên "Cầu Lỡ" vẫn lồi lõm từng nhịp, xe chạy qua gập ghềnh như đi xiếc, Đã hai mươi lăm năm gọi là hòa bình và tái thiết đất nước mà những vết tích của chiến tranh, bom đạn và nghèo khổ vẫn trùm lên mỗi thân phận con người. Dọc đường từ ngã ba Chiên Đàn lên đến chợ Quán Rườn, người dân đi bộ, đội những mớ rau, củ sắn từ miền quê xa xuống chợ bán vẫn còn.
     Đây là hình ảnh mà ngày nhỏ, cách đây cũng ba bốn mươi năm, ngày anh còn là cậu học trò đi học ở trường Chiên Đàn anh đã thấy. Hình ảnh những người dân quê còm cõi đó vẫn ăn sâu vào lòng anh như một tì vết của nghèo khổ. Anh đã từng cạn kiệt sức sống trong những trại tập trung, đã từng lê tấm thân ngồi nơi gốc bàng vá từng lỗ vá ruột xe đạp để kiếm miếng cơm củ khoai về nuôi con, nên anh biết rõ một điều là ai cũng mong có cơm ăn áo mặc, mà đến ngày nay xem ra ước mơ ấy cũng chưa đạt được.
     Xe chạy về đến nhà chị Nhường thì trời cũng quá trưa. Đi một đoạn đường dài mất một ngày một đêm mới tới. Các con cháu của chị Nhường đứng ở sân nhà chờ đợi. Chị Nhường con đông đến bảy đứa, có mấy đứa lớn có vợ, có chồng, có con, tay bồng tay bế đứng nơi sân đợi. Và cả bà con lối xóm nữa. Họ đứng lố nhố chung quanh sân. Chắc là họ muốn nhìn một người đi Mỹ trở về ra sao? Một người mà cách đây năm bảy năm còn ngồi bên gốc bàng sửa xe đạp, ốm o gầy mòn, bây giờ đã thay da đổi thịt, đã phổng phao thấy rõ. Một người mà cách đây mười năm theo lệnh của công an xã, nhân dân đã tụ họp ra ngoài trụ sở uỷ ban để "giải chế" cho. Có nhiều ý kiến nói ra nói vào về "tội ác ngày xưa" của Hạo, khi anh còn làm tiểu đoàn trưởng. Nhưng cuối cùng thì theo "ý dân", anh được giải chế, nghĩa là chính quyền không còn quản chế anh nữa. Nay thì cũng đám dân đó đứng trước sân nhà anh đợi anh về, ngoắc tay, kêu lớn tiếng: "Anh Hạo ở Mỹ về đó hả, anh khỏe ghê he!"

4.
Hạo nói chị Nhượng chia phần cho những người bà con thân sơ, mỗi người một lọ dầu gió xanh, năm chục ngàn bạc Việt Nam, và một số quần áo cũ mà các con anh đã tìm mua ở chợ trời hay các tiệm Goodwill. Với bấy nhiêu thôi, Hạo đã được tiếng đồn lành "ông Hạo mới năm năm đi Mỹ, về mua quà cho cả làng". Ngày trước cách đây mười mấy năm chứ có đâu xa, ngày Hạo được kêu lên xã "giải chế", trong một đêm tối trời trong hội trường tỏa ánh sáng đèn măng sông, cũng những người dân kia đã giơ tay cao, đã phát biểu những lời độc địa: "Ông Hạo thuộc thành phần ngụy dữ dằn, đã từng làm tiểu đoàn trưởng, chỉ huy quân ngụy đi càn biết bao nhiêu trận, có tội rất lớn đối với nhân dân và cách mạng". Câu nói như một vết chém đâm ngập vào tim Hạo, làm tâm hồn anh tê điếng, ám ảnh Hạo suốt mấy năm ròng.
     Cũng những người đó hôm nay đến đây thăm anh, ai nhìn anh cũng khen anh khỏe mạnh, mập ra, da thịt hồng hào. Thì ra cơm gạo tư bản dư dả quá, xứ sở người ta văn minh tiến bộ quá, còn xứ sở mình thì đã hai mươi năm "giải phóng" mà người dân vẫn ăn đói mặc rách. Hạo nghĩ, nếu không có cuộc ra đi thì chắc anh vẫn mãi ngồi bên gốc cây bàng vá từng lỗ ruột xe đạp kiếm ăn, các con anh vẫn phải đi bán cà rem dạo hay bán trà đá dạo, chứ có bao giờ nghĩ chúng sẽ được đi học đàng hoàng.
     Chị Tửu, một phụ nữ từng bỏ làng nhảy núi ngày chiến tranh, đã từng là trung đội trưởng du kích xã, từng bị thương mất đi một mắt, bây giờ phục viên trở về làm ruộng, bị thiếu ăn, đói lên đói xuống, bế đứa con gái ba tuổi đến nhà Hạo thăm.
     Từ đàng xa chị Tửu đã lên tiếng:
     – Nghe nói anh Hạo từ Mỹ về, tôi ghé thăm anh chút, ai cũng đồn về anh.
     – Đồn gì vậy chị Tửu.
     – Thì nói anh khỏe mạnh, lột xác cũ đi.
     – Vậy còn chị thế nào, nay có khá không?
     – Khá gì mà khá, đói rã ra anh ơi. Từ ngày anh đi Mỹ tôi cũng nghỉ việc luôn, anh nghĩ tôi tàn tật như vầy mà còn lao động gì được nữa, thế mà tôi có được cấp dưỡng gì đâu. 
     Anh chạnh nhớ đến chị Tửu ngày anh ra xã "giải chế", Tửu đã đứng lên phát biểu: "Với sự khoan hồng của cách mạng, xin chính quyền xã thôi không quản chế anh Hạo nữa". Điều này Hạo mang ơn chị Tửu. Dù gì thì trong những lúc anh bị mọi phía xô anh xuống dưới bùn đen mà có người kéo anh lên. Hôm nay để đền bù lại tấm lòng ấy, cùng với lòng muốn cứu giúp một người hàng xóm trong cơn ngặt nghèo, anh lấy cho Tửu những món quà anh đem về và anh cho riêng chị Tửu 100 đô la. Chị Tửu không ngờ mình được cho nhiều như vậy, chị quỳ xuống níu lấy tay Hạo:
      – Tôi không biết lấy gì để cảm ơn anh đây, quý hoá quá, quý hoá quá.

5.
Đến ngày thứ năm thì Hạo mệt mỏi quá rồi. Anh định về quê chơi một tháng để nghỉ dưỡng sức rồi qua lại Mỹ tiếp tục "cày". Nhưng cái mục tiếp khách này anh thấy quá mệt, những người ở đâu rất xa nghe anh về cũng ghé thăm để được anh cho một lọ dầu, một ít áo quần cũ. Thì ra, tiếng lành thì đồn xa, cứ cái đà này, mỗi người đến thăm anh, anh tiếp khoảng hai mươi phút thì anh cũng mệt ứ hơi rồi, huống hồ gì có người ngồi hỏi anh đủ thứ chuyện.
     Anh qua Mỹ mới năm sáu năm, mà cả ngày quần quật trong hãng làm việc, có hôm hãng cho làm over–time thì anh đi từ sáng sớm đến tối mịt mới về nhà, chẳng biết trời trăng mây nước gì cả, về đến nhà cũng không buồn mở Tivi. Ở trong hãng anh làm assembly, nghĩa là công việc sai đâu làm đó, sợ từ người chủ đến supervisor, sợ sẽ không được lòng họ, sẽ không được lên lương, không được kêu làm thêm giờ.
     Anh nhiều lúc tự cười với chính mình, tưởng qua Mỹ làm quan làm tướng gì, lại phải chun vào làm công nhân cấp thấp. Sợ mất việc, sợ sếp không vui nên ai cũng phải nói cười hỷ hả trong những lúc, những chuyện không đáng cười chút nào. Sếp đặt đâu làm đó, nhiều khi lại phải nói đệm thêm những câu cho sếp vui lòng. Anh chợt nhớ đến ngày anh còn làm tiểu đoàn trưởng, lúc còn "hét ra lửa", bọn lính thấy anh là sợ xếp vó, đang vui đùa, cười nói đó, thấy anh lại im ngay, họ phải vui theo cái vui của anh, buồn theo cái buồn của anh, quyền lực và đồng tiền vẫn ngự trị mãi trên đời này. Cuộc sống cứ như là một cái bóng, ở đầu này thì thấy đầu kia cao lớn, ở đầu kia thì ngược lại.
     Nhân lễ cúng ông bà ngày Hạo về cũng như cúng hai ngôi mộ cha mẹ anh vừa mới xây, anh đưa 500 đô cho chị Nhường lo liệu một bữa tiệc mời dân cả xã đến dự. Chị Nhường đã thuê hai cây dù lớn, che rợp cả một khoảng sân và cả khu vườn, cùng thuê bàn ghế kê san sát để tiếp đãi khách. Trong lòng Hạo coi đây là một lễ tạ ơn, tạ ơn cha mẹ, ông bà, đã cho gia đình anh được đi Mỹ, con cái có tương lai và đời sống chính anh được sung túc hơn, với lại trong thâm tâm, anh cũng muốn nở mày nở mặt với bà con lối xóm. Từ ngày đứt phim, gia đình anh tan hoang, anh em đều đi tù, đều bị đày đọa. Nhưng bây giờ cả hai đều ở Mỹ, anh muốn cho những người cán bộ xã ấp gọi anh là ngụy, nay phải thấy rằng điều anh chọn lựa ngày trước là đúng đắn.

6.
Khi lễ cúng gần xong thì khách khứa cũng lục tục kéo đến. Toàn là những người bà con trong xóm, trong làng ngày trước. Có người lúc anh gặp nạn thì xót thương giúp đỡ, có người quay lưng, có người hận thù đòi đem anh ra xử trước tòa án nhân dân. Bây giờ đã mười mấy năm trôi qua, mọi điều đã lắng xuống, cũng có một số người làm ra vẻ cố quên.
     Hạo ra đứng trước cổng nhà để đón khách, gặp ai anh cũng vui mừng bắt tay thăm hỏi. Ai cũng dừng lại với anh ít phút để hỏi người nọ người kia ở Mỹ hay ở Sài Gòn. Những chức sắc trong Ủy ban nhân dân và công an xã cũng kéo đến dự dù anh không mời. Có lẽ họ nghe anh về và nghe bà con xôn xao bàn tán, họ muốn tới xem thực hư ra sao. Khi tất cả đã vào bàn, thực khách tràn đầy cả một khoảng sân và khu vườn. Hạo đến từng bàn chúc mừng khách, ai cũng níu anh lại làm một ly, dù chỉ nhấp môi cho có lệ nhưng rượu cũng thấm làm anh choáng váng và bừng bốc. Khi anh đến bàn của đám công an và ủy ban thì họ đồng loạt đứng dậy mời anh cạn ly. Anh thấy mặt mày người nào cũng đỏ ửng vì men rượu.
     Ông Trà, Chủ tịch ủy ban cầm ly rượu lên mời anh:
     – Mừng anh Hạo đã trở về quê thăm bà con, tụi tôi mừng lắm.
     – Thì đi lâu cũng nhớ quê nên muốn trở về thăm.
     Ông Hữu, Trưởng công an xã, người đã từng quản chế anh trong suốt ba năm, cũng cầm ly rượu đứng lên:
     – Anh Hạo, tụi tôi đến đây dự cùng anh hôm nay cũng có ý là, thứ nhất, chia vui cùng anh, thứ hai là nhờ anh cộng tác với xã để xây dựng một vài công trình mà xã đang còn bế tắc. Đáng lẽ chuyện này phải mời anh ra Ủy ban để nói, nhưng sẵn đây, anh em với nhau cả nói anh dễ thông cảm hơn, xã nhờ anh chung góp một ít để làm cây cầu lỡ mà từ lâu ta không làm được, biết anh ở Mỹ làm ăn dễ dàng với trình độ của anh cũng cao nên chắc làm ăn khá. Thôi thì xin anh đóng góp cho mười ngàn đô cho công tác chung của xã chắc anh chẳng từ nan.
     Ông Hữu nói một hơi dài, cái giọng vẫn còn cái giọng kẻ cả và ra lệnh, Hạo thấy như quá đường đột, anh vẫn biết rằng về quê sẽ gặp những cảnh mồi chài tiền bạc nhưng anh không ngờ anh đang ở trong một hoàn cảnh khó xử như thế này. Anh tìm kế hoãn binh:
     – Các anh nói chuyện đó đúng chớ, mình đi xa về phải góp phần xây dựng quê hương chứ anh, nhưng đây là chuyện lớn mình phải có kế hoạch, mai mốt mình sẽ bàn nhiều hơn.
     Hạo nói giã lã thêm mấy câu rồi anh tìm cách qua bàn khác sau khi anh nhận một tràng pháo tay dài của đám chính quyền. "Chu cha! Nó nghĩ như mười ngàn đô la làm ra ở Mỹ dễ dàng lắm vậy, sức như anh làm mười ngàn cả năm chưa chắc đã có mà còn biết bao nhiêu là chi phí, anh ky cốp, chắt bóp cả hơn năm năm mới được bảy ngàn mang về mà nay nó bảo đóng góp cho xã mười ngàn, làm như ở Mỹ đi ra đường là lượm đô la không bằng" Hạo vừa đi vừa chửi thầm trong bụng.

7.
Tối đó, xong công việc mọi chuyện, Hạo mới khều chị Nhường ra ngoài bàn nói nhỏ:
     – Em về đây làm mả cha mẹ, thăm bà con như vậy cũng đủ rồi, hồi hôm bọn ủy ban còn muốn vòi tiền để xây cầu, em kiếm đâu ra, em hứa cho qua chuyện. Thôi thì mai em đi, em vô lại Sài Gòn chơi mấy tuần rồi đi Mỹ luôn, chứ ở đây không yên với họ đâu! 
     Chị Nhường hỏi lại:
     – Còn chuyện vợ con em tính sao, chị đã nhắn con Lan lên rồi, nó là giáo viên, hơn ba mươi tuổi chưa chồng, không đẹp nhưng hiền lành.
     Hạo thấy chán nản nên nói với chị:
     – Em còn khoảng năm trăm, đem về bảy ngàn mà lo công việc và cho bà con cũng gần hết, lại phải vô Sài Gòn ở mấy tuần, thôi chị nói với Lan em qua Mỹ sẽ viết thư về.
     Đó là quyết định của anh, Hạo sáng hôm đó nhờ thằng cháu chở xuống bến xe rồi ra thẳng Đà Nẵng mua vé máy bay về Sài Gòn. Chị Nhường vẫn khóc nhưng anh thì đi như một cuộc chạy trốn, anh không có thì giờ để nhìn lại gốc cây bàng ở ngoài chợ, nơi anh ngồi đó suốt bảy năm để vá xe đạp lề đường kiếm ăn. Thôi cái gì cũng nên gói cất trong ký ức.

 

– Trần Yên Hòa

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết.
Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.
Càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rảnh rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Lộc đã chết! Tích ngỡ ngàng khi nghe tin đó. Chàng không tin vào tai mình. Làm sao Lộc có thể chết được? Mình mới gặp anh ấy có tuần trước thôi mà! Trông anh còn khỏe mạnh, tự tin, tràn đầy sức sống. Vậy mà bây giờ anh đã không còn nữa. Cái chết của anh có cái gì đó không thật. Và có lẽ đó là lần đầu tiên Tích đứng trước nhận thức trực tiếp và thâm sâu về tính chất phi lý của một sự kiện quá bình thường trên đất nước chiến tranh này.
Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School”. Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy. Cũng có lúc tôi lại nh ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.