Hôm nay,  

Con Đen

09/09/202309:37:00(Xem: 3108)
Truyện

yenhoa

Tôi nhìn sững vào con bé đen (nên gọi là con bé hay là cô bé đây). Nó đang đứng nói chuyện với một người đàn ông Mỹ lớn tuổi, cũng đen như nó, ở trước cửa phòng ra vào khu tập thể dục. Con bé chừng mười bảy, mười tám tuổi là cùng, nước da đen cáy trông như một pho tượng đồng đen. Thân hình bó sát trong bộ đồ tập thể dục, khoe ra cặp đùi thuôn dài, khoẻ mạnh. Bờ ngực tròn, vun cao, hơi lấp ló ra ngoài chiếc áo che ngực ngắn. Mà tại sao tôi chú ý sững sờ đến con bé nầy vậy cà. Không biết nó là Mỹ đen thiệt, hay đen lai Mễ, Ấn Độ, Phi Luật Tân, hay Việt Nam cũng không chừng. Nhìn nó đang líu lo nói chuyện với người đàn ông Mỹ, tôi không phân biệt được người đàn ông là gì của nó. Nhưng nhìn nhân dáng nó là tôi thoáng hiện trong ý nghĩ, nó có nét Á Đông phảng phất trong nụ cười của nó. Mà Á Đông là quê tôi, Việt Nam là quê tôi mà.
    Tôi leo lên máy, "set up" và bắt đầu chạy theo tốc độ ấn định. Thời gian gần đây, tôi thấy mình nặng thêm mấy chục pounds, nên tôi phải tìm đến nơi nầy để mỗi buổi sáng, tôi leo lên máy chạy. Thế mà khoẻ. Chạy đổ mồ hôi, rồi vào phòng xông hơi, tắm nước lạnh, rồi về chuẩn bị đi làm ca đêm. Cuộc sống tôi như một cuốn phim, quay chậm, từng giờ, từng phút, như định sẵn.
    Phòng tập thể dục lúc nầy rất khá, có trang bị TV, để người tập vừa xem TV (hay nghe nhạc) cho cảm thấy thời gian trôi nhanh hơn, vừa tập. Đó là vấn đề tâm lý. Tôi mải miết nhìn lên màn ảnh xem ông Tổng Thống Bush đang tuyên bố gì về chiến tranh chống khủng bố. Tin nầy giật gân đây. Nước Mỹ đang bình yên bỗng dưng sôi sục. Dân chúng hoang mang vì bọn khủng bố cướp máy bay đâm vào hai khu thương mại to nhất nước Mỹ. Chưa hết, nay Mỹ còn đem quân đánh sang sào huyệt bọn chúng. Dĩ nhiên là khi đã đưa bọn khủng bố vào chân tường, bọn nó sẽ đi ngược lại. Không biết màn thứ hai của bọn nầy là gì đây.
    Khi tôi rời máy truyền hình ngó qua bên phải thì thấy con đen cũng đang chạy trên máy gần tôi. Nhìn kỹ, tôi thấy nó đen mà hấp dẫn dễ sợ. Hai gò ngực vun cao, nhô lên như muốn thoát ra khỏi vòng nịt.. Gò ngực nầy là nguyên si con gái đây, không bơm, độn, chưa chửa đẻ. Và cái eo nhỏ của nó thật hết sẩy. Cái eo rất thon. Tôi nhìn rõ hết vì nó mặc chiếc áo ngắn cũn, để lòi cả lỗ rún ra. Trên lỗ rún, con bé còn đeo tòn teng một cái vòng. Đây chắc là mốt thời thượng của tuổi trẻ bây giờ. Ở đâu cũng đeo khoen được hết. Lỗ mũi, bên mắt, lỗ rún, kể cả dưới lưỡi cũng đeo khoen, kể cả chổ kín nhất có đứa cũng có hột. Thật tôi không hiểu nổi bọn nhóc muốn gì. Với con bé đen nầy, tôi chỉ thấy được cái khoen ở chỗ lỗ rún thôi, chứ mấy chỗ kia làm sao tôi thấy được.
    Tôi vừa chạy vừa nhìn nó, nó cũng xoay lại nhìn tôi cười hồn nhiên.
    - Hi!
    - Hi!
    - Xin lỗi, cô là người Mễ? - Tôi hỏi cho có chuyện.
    Con bé cười lắc đầu:
    - Mỹ lai Việt.
    - Ô.
    Tôi la lên, vì tôi đoán trúng, tôi mừng thiệt tình vì tôi gặp một đồng hương đen. Dĩ nhiên, ở xứ nầy gặp các em đen là chuyện thường tình. Đây là quê hương chính của họ mà. Nhưng con bé nầy lai Việt Nam nên cùng gốc gác với tôi. Dù dưới dạng nào đi nữa. Con bé cũng có chút máu của tôi trong đó. Máu của ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Dù trải qua mấy ngàn năm rồi, mà lại lai nữa, nên giòng máu nầy chắc cũng lạt nhách rồi.
    - Mẹ you là người Việt?
    - Ờ hớ.
    - You có biết Việt Nam là xứ nào không?
    Bỗng nhiên con bé trổ tiếng Việt ngon lành:
    - Chú tưởng cháu không nói được tiếng Việt hả, cháu sinh tại Mỹ nhưng mẹ cháu đã dạy cháu tiếng Việt từ nhỏ, cháu nói còn hay hơn chú nữa đó.
    Tôi ngẩn ra. Thế là tôi bị hố, cứ nghĩ người Việt nào qua Mỹ cũng thích nói tiếng Mỹ, để chứng tỏ mình qua Mỹ lâu, quên hết tiếng Việt cũng là điều hãnh diện. Không như tôi. Đã bảy năm ở xứ sở nầy mà gặp người Mỹ nào là nói như muốn bạnh quai hàm, vừa nói vừa lấy tay làm dấu.
    - Thế mẹ cháu sang đây năm mấy?
    - Thưa chú, hình như năm bảy lăm.
    Con bé ngoan, mẹ nó biết dạy nó lễ phép.
    - Mẹ cháu nói hồi đó, mẹ cháu hoảng quá, từ miền Trung di tản vô Sài Gòn, một thân một mình cô quạnh. Thấy người ta chạy thì cũng chạy. Chạy xuống bến Bạch Đằng thấy tàu nào cũng leo lên. May mà đi đươc.
    - Mẹ cháu đi một mình qua đây?
    - Một mình chứ mấy mình, qua đây mấy năm mới gặp ba cháu, ba cháu cũng đi tập ở đây. Ông đang đạp xe trên máy đàng kia kìa.
    Tôi nhìn theo hướng tay nó chỉ và thấy người Mỹ đen khi nãy.
    - Ở Việt Nam mẹ cháu ở tỉnh nào, biết không?
    - Quận Lý Tín, tỉnh Quảng Tín, thường gọi là Chu Lai đó.
    Tôi giật thốt người lên. Chu Lai là nơi tôi đã gắn bó từ thời chiến tranh, tôi đã đi dạy học ở đó, quen biết khắp cả vùng Lý Tín.
    Tôi đáp vi vàng như được gặp chính nó là dân... Chu Lai.
    - Thì chú cũng là dân Chu Lai đây nầy.
    Con bé trố mắt nhìn tôi:
    - Chú biết An Tân không? cháu đã về thăm Việt Nam năm ngoái, cháu về An Tân ở cả tháng, mẹ cháu dẫn cháu đi chơi cùng hết. Qua đây cháu nhớ bên đó lắm.
    - Mẹ cháu tên gì?
    - Phan Thi Như Thi.
    Tôi hoảng hốt một lần nữa:
    - A, cháu là con của Như Thi hả. Chú biết mẹ cháu mà. Thất lạc nhau cũng hơn ba mươi mấy năm rồi.
    Tôi mừng nên nói mò, nhưng mà Như Thi thì ở An Tân ai mà không biết, chắc không có sự trùng tên đâu. Tôi nghĩ thế.
***
An Tân là vùng đất cuối của quận Lý Tín, giáp ranh với Quảng Ngãi. Ngày Mỹ qua, đóng ở căn cứ Chu Lai, An Tân cũng đươc đồng hoá, gọi là Chu Lai, cùng nghĩa với một nơi ăn chơi của lính Mỹ. Ở đâu có lính Mỹ là ở đó có "gái". Gái từ vùng quê lên, gái từ Đà Nẵng vào, gái từ Sài Gòn ra, tấp nập, ồn ào, son phấn. Những snack bar mọc lên như nấm trên các nhà dọc theo quốc lộ Một ở An Tân. Rồi qua khỏi cầu ông Bộ, nơi trên đồi cao, có một đơn vị lính Mỹ đóng trên đó, gái cũng theo ra lập những cái chòi dã chiến để "tiếp khách". Những chàng GI xa xứ, mỗi lần từ trên núi xuống thì tấp vào đây du hí. Thôi thì ô kê salem loạn xà ngầu. Nơi nầy gọi là Quán Bà Miết.
    Không biết cái bà Miết nào đó, đầu tiên đến đây lập quán, nuôi em út, tiếp khứa Mỹ, mà tên gọi trở thành một địa danh của giới ăn chơi. Địa danh nầy được làm bạn đồng hành với khu Khâm Thiên Hà Nội ngày trước, hay khu Ngã ba Chú Ía ở Sài Gòn, nhưng mà cũng có cái khác nhau, khu Ngã Năm chuồng chó, Ngã ba Chú Ía tiếp khách Việt, còn quán bà Miết thì chuyên tiếp toàn khứa Mỹ.
    Một buổi chiều trời mưa tầm tã. Sau giờ dạy học, tôi chạy xe gắn máy từ trường trung học Lý Tín về Tam Kỳ. Mưa loang loáng nước và gió tạt mạnh, tôi thu người trong chiếc áo đi mưa, cố tránh những dòng nước chảy tràn vào thân thể. Qua khỏi cầu ông Bộ một đoạn là gần tới quán bà Miết, khu nầy bắt đầu lên đèn. Những ngọn đèn được thắp bằng pin của máy PRC25 của lính Mỹ cho, cũng đủ sáng một dãy hàng quán dài chừng nửa cây số. Nhà nào cũng nuôi em út nên hễ người lính Mỹ nào xuống đây ăn chơi đều bị xin pin máy PCR25. Nhờ vậy, khu hàng quán tuy không có điện nhưng đèn đuốc cũng sáng choang. Trời mưa chạy xe đàng xa, nhìn tới quán bà Miết tôi thấy lấp lánh sáng như một dãy sao.
    Một chiếc xe jeep nhà binh chạy vụt qua chỗ tôi. Trên xe, phía trước, một chàng lính Mỹ lái xe mặt đỏ gay, ngồi bên là một chàng lính Mỹ khác và một cô gái. Tôi cứ tưởng hai người đang âu yếm nhau, nhưng sao ô kìa, không phải, hai người đang giằng co nhau. Bỗng người lính Mỹ lái xe dừng xe lại, đột ngột, người lính Mỳ ngồi với người con gái, đứng lên đẩy người con gái xuống xe, cái đẩy khá mạnh khiến cô gái chúi nhũi xuống mặt đường, nằm bò lê trên đường, miệng cô tuôn ra một tràn chửi thề, đ.m.
    Trời vẫn mưa dầm dề, tôi chạy xe qua cô gái, cô gái thôi chửi nhưng miệng tru tréo:
    - Đồ chơi chạy, đồ đ. chạy, đ. mẹ nó chứ, hu hu!
    Tôi chạy xe qua, cô gái ngoắc tay lia lịa, tôi biết từ đây ra tới quán bà Miết cũng khá xa, đi bộ cũng mất nửa tiếng đồng hồ, tôi đâm lòng trắc ẩn, nên quay xe lại trước cô gái:
    - Có chuyện gì, trời mưa trời gió thế nầy mà bị bỏ giữa đường ướt nhem hết vậy?
    Cô gái lại chửi một tràng dài nữa:

    - Đ. me mấy thằng Mỹ chạy làng. Trời mưa thế nầy mà bà chủ còn bắt tiếp khách. Tụi Mỹ bảo lên đồn với nó, chơi xong nó trả tiền, nào ngờ, hai thằng chơi xong chở xuống đây rồi bỏ chạy luôn, không trả đồng xu nào.
    Tôi nhìn cô gái, son phấn dày dạn đã che lấp đi trong cô sự hồn nhiên, chứ thật ra, cô còn trẻ lắm, khoảng mười tám mười chín, giọng nói, chính là giọng nói con gái Lý Tín, vì những học trò tôi cũng nói giọng nói ấy. Tôi thấy thương cảm bèn lên tiếng:
    - Thôi đừng khóc nữa, lên xe tôi chở về, chứ không mưa ướt hết.
    - Anh cho em về quán bà Miết. - Cô gái lên ngồi phía sau tôi và nói vậy.
    Tôi rồ ga, xe vọt đi, mưa càng lúc càng nặng hạt. Tôi quay lại hỏi chuyện (cho có hỏi):
    - Cô làm gì ở đây?
    Cô gái trả lời không ngượng ngùng:
    - Anh biết rồi mà cố hỏi, làm gái chứ làm gì, ở khu nầy thì chỉ làm gái cho Mỹ thôi.
    Tôi buột miệng nói một câu lảng nhách:
    - Sao không kiếm nghề khác?
    - Vùng nầy toàn cát và dương liễu có nghề gì mà làm đâu. Xin đi làm sở Mỹ ở Chu Lai rồi tụi Mỹ cũng tìm cách chơi, thôi làm gái cho xong.
    Cô gái trả lời gọn bâng, tỉnh bơ, như đang nói một chuyện làm ăn bình thường nào đó, khiến tôi không còn mở miệng để khuyên răn hoặc an ủi câu nào nữa, tôi hỏi tiếp:
    - "Làm" ở đây có khá không?
    - Thì anh thấy đó, gặp thằng Mỹ tốt thì nó ăn bánh trả tiền đàng hoàng, còn không thì nó đ. chạy.’’
    Tôi nghe lạnh xương sống. Xã hội đã đưa cô gái vào đường tội lỗi và ăn nói trây trúa quá, không ngượng miệng. Trong lớp học, tôi đã dạy các học trò những điều đạo đức, như làm ăn lương thiện, mà ngoài đời, sát nách cuộc sống chứ có đâu xa, những cảnh tượng mời chào, đón khách của gái diễn ra nhan nhãn khắp vùng Chu Lai nầy, tôi còn có thể đứng trên bục giảng để nói những điều sách vở nữa không? Nhưng tôi cũng chống chế:
    - Đừng nói vậy, cô biết tôi là thầy giáo dạy ở trường trung học Lý Tín không?
    Giọng cô gái phía sau:
    - Em biết chớ sao không, cái quận lỵ nhỏ xíu nầy chuyện gì mà không biết. Anh mới đổi về dạy đây mà ai cũng đồn rân.
    - Họ đồn gì?
    - Đồn anh yêu cô giáo Uyên.
    - Ai nói vậy?
    - Thì học trò anh nói chứ ai.
    - Tụi nó đồn bậy đó, đó chỉ là tình đồng nghiệp thôi.
    Tôi không muốn giải thích với cô gái nầy, có ich gì đâu, những lời đồn vẫn thường có giữa học trò với thầy giáo hay giữa các thầy cô giáo. Chuyện đó cải chính làm gì cho mệt. Khi đến quán bà Miết, tôi dừng xe, cô gái xuống. Trước khi đi, tôi hỏi:
    - Cô tên gì?
    - Thi, Phan Thị Như Thi.
    - Tên nghe đẹp ghê, thôi cô vào nhà đi kẻo ướt hết, hẹn có dịp gặp lại.

***

Một lần khác, mà lần nầy là lần quyết định. Tôi cũng đi dạy về, chạy xe ngang qua chỗ "làm ăn" của Như Thi ở quán bà Miết, cô thấy tôi chạy xe qua, từ trong nhà, cô chạy ra đường ngoắc tay lia lia:
    - Anh Khôi, anh Khôi, dừng xe lại em nói cái nầy.
    Tôi phải dừng xe lại, cô đến cầm ghi đông xe rồi kéo tôi vào quán:
    - Vào đây chơi mà, lâu quá mới gặp anh, em nhớ anh muốn chết...
    Tôi biết cô gái nói chơi thôi, nhưng điệu bộ của cô làm tôi cảm động.
    - Anh ngồi xuống đây, anh có sợ khi học trò anh đi qua thấy không?
    Tôi làm bộ anh hùng rơm:
    - Sợ gì, có gì đâu mà sợ. Nhưng hôm nay tôi bận về nhà có chuyện.
    - Thì ngồi chơi chút hãy về, anh uống bia và ăn mực khô Đại Hàn nhé.
    Không cần tôi có ý kiến, cô gái đem ra mấy lon bia Ham cuả Mỹ và một bịch mực khô thơm phức. Cô khui bia đưa tận tay tôi:
    - Anh uống đi, em mời anh vào đây là để cảm ơn anh hôm đó đã chở giúp em về.
    - Ơn nghĩa gì.
    Nói vậy chứ tôi cũng thấy vui vui khi có người mang ơn mình, tôi uống một ngụm bia mà nghe mát lạnh cả cổ. Cô gái cũng cầm một lon bia cụng với tôi:
    - Mời thầy, em gọi thầy như học trò thầy nghe, thầy dô năm mươi phần trăm với em nghe.
    - Không đươc, tôi uống bia không được nhiều.
    - Con trai gì mà dở ẹt vậy?
    Tôi bị khích tướng nên uống một hơi cạn hết lon bia. Cô gái lấy lon bia khác. Mở nắp, cứ như vậy, tôi uống đến lon thứ ba thì nghe mình quờ quang, ăn nói lắp bắp. Tôi nghe tiếng cô gái:
    - Anh say rồi, vào giường em nằm nghỉ đi.
    Tôi được cô gái xóc nách đem vào phía trong, nơi đây có nhiều giường kê sát nhau, chỉ che một tấm vải màn ngăn cách. Tôi nằm xuống giường, cô gái đắp lên đầu tôi chiếc khăn tẩm nước đá mát lạnh. Tôi cầm tay cô gái vuốt nhẹ, tự dưng một luồng điện chạy rần rật trong người tôi. Đó là sự thèm muốn một thân thể đàn bà. Có rượu vào, khiến tôi mạnh dạn thêm lên, tôi kéo cô gái xuống gần tôi và hôn lên mặt cô, cô để yên, tôi đưa tay sờ soạng vào ngực, núm vú nhỏ, căng tròn, rất thon. Cô gái lại chủ động tự cởi áo quần ra. Tôi mù mờ trong một cảm giác sướng khoái, tôi mê man trong những cái vuốt ve của cô gái, tôi mơ hồ thấy cô lại cởi áo quần tôi ra, rồi leo lên tôi. Một lúc sau tôi rùng mình... sướng quằn quại, rồi thiếp đi. Tôi nghe thoảng theo hơi gió mùi thơm của loại nước hoa rẻ tiền và giọng nói của cô gái đâu đó với mấy người bạn “ông thầy còn trai tân mầy ơi.”

***

Tôi với cô giáo Uyên vừa có cảm tình với nhau, bỗng nhiên cô nghe đồn tôi bồ với một “con đĩ” ngoài quán bà Miết, cô khinh tôi ra mặt. Các thầy cô cũng nói ra nói vào, đại ý là “làm đĩ mười phương cũng nên để một phương lấy chồng” nghĩa là tôi đã dạy học ở đây thì phải giữ thể diện cho học sinh. Tôi không biết nói gì hơn là tự tách mình ra khỏi đám thầy cô đạo đức đó, để yêu Như Thi, bởi vì tôi thấy, trong tận cùng, Như Thi có một cái gì đó rất đáng quý, như là sự hiền lành, chân thật và nhất là Như Thi luôn luôn bảo tôi, “anh phải xa em đi, đừng phải vì em mà anh mang tiếng’’. Tôi làm anh hùng rơm một lần nữa, trả lời:
    - Anh yêu em có gì đâu mà xấu, tình yêu cao quý lắm.
    Thường như vậy, Như Thi hay khóc nhoè nhoẹt trên vai tôi.
    Năm đó tôi bị động viên đi lính. Tôi thấy như mình đươc giải thoát, giải thoát khỏi cái trường lớp nặng nề với những lời ong tiếng ve. Tôi muốn làm anh hùng kiểu ‘’anh là lính đa tình”. Có lẽ, lính tráng thích hợp với tôi hơn và cũng hợp với hoàn cảnh của tôi hiện giờ.
    Tôi thụ huấn ở quân trường Thủ Đức chín tháng. Khi ra trường, tôi quyết tâm đổi về Sư Đoàn 2 bộ binh, nhưng không được, vì nhu cầu quân số tôi phải về Sư Đoàn 5 BB, đóng ở Bến Cát Bình Dương. Với đơn vị mới, tôi phải lặn lội hành quân suốt năm, suốt tháng. Tôi không liên lạc được với Như Thi từ ngày đó. Càng cách xa, tôi có thì giờ để tự hỏi lại mình, tôi có yêu em không? hay là yêu em chỉ vì sự thèm muốn xác thịt của một người con trai mới lớn. Tôi không dám nói ra, nhưng mỗi lúc tôi bị giằng xé về tình cảm đó thì có một tiếng nói mơ hồ ở đâu vang vọng trong tai tôi “em là con đĩ, em là con đĩ, anh quên em đi”. Tôi cương quyết dứt khoát không nghĩ tới em nữa, nhưng, mỗi lần nghĩ tới em, lòng tôi vẫn thấy đau như dao cắt.

***

Con bé đen nói:
    - Chú có muốn gặp mẹ cháu không?
    - A à, để lúc nào rảnh chú sẽ ghé thăm mẹ cháu, mẹ cháu khoẻ không?
    - Cũng khoẻ, mẹ cháu nhớ Việt Nam lắm nên mẹ cháu hay buồn lắm. Chắc gặp lại chú mẹ cháu sẽ vui. Chú đến nhà cháu chơi nghe chú.
    - A à, chú sẽ đến chứ, nhưng hôm nay chú phải đi làm, cháu cho chú số phone để chú gọi thăm mẹ cháu.
    Con đen tìm cây viết và ghi số phone cho tôi. Tôi bỏ mảnh giấy vào túi áo và nói:
    - Chắc chắn chú sẽ đến thăm. Thôi chú về trước nghe.
    Tôi đi về như chạy.
    Khi về nhà, tôi cởi áo ra bỏ vào chỗ đồ dơ. Buổi chiều vợ tôi lấy áo dơ đi giặt, nên ướt và rách luôn tấm giấy ghi địa chỉ và số phone của Như Thi. Tôi không tìm đâu ra tấm giấy ấy một lần nữa, nên không thể gọi hoặc đến thăm nàng.
    Tôi đi tập thể dục cũng chẳng bao giờ gặp lại “con đen” nữa. Tôi không hiểu tại sao nó cũng biệt tăm như vậy.

– Trần Yên Hòa

 

Ý kiến bạn đọc
11/09/202304:46:01
Khách
Truyện hay quá nhưng kết cục thì chắc cũng là kỷ niệm.... thôi thì <hãy ngủ yên tình yêu >
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.
Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi.
*SONG THAO Tôi chừ chỉ chơi thể thao trên ghế sa-lông, ngồi coi người ta chơi. Thứ tôi coi người ta chơi là hockey, tennis và đôi khi bóng tròn. Mình không còn khả năng thì coi người ta chạy nhảy cũng là một cách chơi. Cách chơi biết mình biết ta. Các ông bạn tôi cũng chơi như tôi. Có điều mỗi người chơi theo ý thích riêng của mình. Ông Hoàng Xuân Sơn, ông Luân Hoán cũng na ná như tôi. Nhưng ông Luân Hoán hơi ngả về bóng tròn. Ông Hồ Đình Nghiêm máu mê hơn. Ông sa đà vào bóng tròn. Thời gian vừa qua, ông coi giò coi cẳng các nữ nhân tranh giải bóng tròn thế giới FIFA một cách mê mệt. Ngày ngày ông bá cáo bà con trên Facebook tường tận về từng cặp chân vàng mà trắng, cô nào đá hay, cô nào chụp banh giỏi, ông rành như có họ hàng thân thiết.
Bạn có thể xem bài này như truyện ngắn. Có thể gọi là nhiều truyện ngắn trong một truyện ngắn, hay là ghép từ nhiều mẩu truyện. Bạn cũng có thể đọc như tùy bút, hay bản tin, hay là vân vân... nghĩa là bất cứ những gì có chữ, có thể đọc lên, có thể nghe được như âm thanh. Đó là những gì tự nhiên hiện lên trong trí nhớ của tôi, những gì tôi bất chợt nghe bên tai khi ngồi bên sông, ven biển, góc rừng, hay khi nửa đêm nhìn ra hàng hiên.
Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết.
Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.
Càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rảnh rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Lộc đã chết! Tích ngỡ ngàng khi nghe tin đó. Chàng không tin vào tai mình. Làm sao Lộc có thể chết được? Mình mới gặp anh ấy có tuần trước thôi mà! Trông anh còn khỏe mạnh, tự tin, tràn đầy sức sống. Vậy mà bây giờ anh đã không còn nữa. Cái chết của anh có cái gì đó không thật. Và có lẽ đó là lần đầu tiên Tích đứng trước nhận thức trực tiếp và thâm sâu về tính chất phi lý của một sự kiện quá bình thường trên đất nước chiến tranh này.
Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School”. Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy. Cũng có lúc tôi lại nh ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.