Hôm nay,  

Chị Xíu của tôi

12/09/202309:55:00(Xem: 3600)

Truyện


ao tim ben cua

 

Ở nhà thường gọi là chị Xíu. Tên của chị là Lan Vy, chị họ của tôi. Chị em tôi chơi thân với nhau như chị em ruột. Tôi không có chị gái nên hình mẫu để tôi học hỏi chính là chị. Chị nổi tiếng xinh đẹp và hiền thục ngay từ lúc còn là nữ sinh đệ nhất cấp. Khi vào lớp đệ thất (lớp 6 bây giờ) bác tôi có mời một anh sinh viên tên là Vinh về kèm cho chị học. Anh ấy nhiệt tình, kiến thức vững và tính cách cũng đàng hoàng. Năm tháng trôi đi học xong đệ nhất cấp, chị thi đỗ vào trường Nữ trung học Thành Nội. Mẹ chị là một người phụ nữ đẹp, phúc hậu và đặc biệt là có giọng hát ru và những làn điệu dân ca xứ Huế rất hay. Ngoài giờ học chị được mẹ kèm cặp, nữ công gia chánh như đan lát, thêu thùa, làm các loại bánh trái, nấu được những món ăn đặc trưng xứ Huế rất ngon. Những năm học ở trường nữ Thành Nội chị càng xinh xắn hơn. Làn da trắng hồng, mái tóc vàng mơ bồng bềnh, ôm lấy khuôn mặt khả ái, rất có duyên. Đôi mắt to, lúc nào cũng long lanh với ánh nhìn ấm áp. Nhìn chị có vẻ đài các của phụ nữ Á đông nhưng có chút gì Tây Tây rất sang. Vì vậy, mỗi lần đi học về không thiếu “những cái đuôi” theo về tận ngõ và cũng không biết bao anh chàng trồng cây si trước cổng trường.
    Tuy vậy chị Xíu vẫn chăm lo học hành và về nhà phụ việc cho mạ. Tốt nghiệp tú tài, chị thi vào sư phạm. Lại nói về anh Vinh (thầy dạy kèm từ lớp 6 của chị) kèm cặp chị học từ đệ nhất cho đến đệ nhị, không ai khiến cũng tự nguyện kiêm luôn cả việc đưa đón chị đi học. Vì vậy mấy “cây si” không có cơ hội tiếp cận, cũng chỉ đứng nhìn từ xa mà thôi! Thế rồi, chị thi đậu vào sư phạm cũng là lúc anh Vinh thưa với gia đình bác tôi xin đưa ba mạ anh ấy sang thăm để bàn chuyện dạm ngõ. Bác tôi thấy anh Vinh là người có thể tin cậy để gửi gắm con gái mình, vì anh ấy học thức, con nhà đàng hoàng, lại một lòng yêu thương chị Xíu. Anh kiên trì đeo đẳng cũng đã 5-6 năm trời, xem ra cũng có vẻ hợp với chị Xíu.
    Bác tôi bảo:
    – Nếu con Xíu thuận thì bác cũng đồng ý cho gia đình hai bên qua lại nhưng hãy để Xíu học xong sư phạm đã rồi mới tính đến chuyện hỏi, cưới.
    Ngày lành tháng tốt, chị tôi xem như hoa có chủ. Chị vẫn chăm chỉ học hành cho đến khi cầm bằng tốt nghiệp sư phạm và được bổ đi dạy ở một trường trong Nội Thành. Đám cưới được cử hành trọng thể sau đó không lâu. Nhìn anh chị thật đẹp đôi và tràn đầy hạnh phúc trong ngày lễ vu quy. Bà con ai cũng vui! Rồi chị về làm dâu nhà chồng, gia đình chồng rất mực yêu mến bởi sự đảm đang, giỏi giang, tháo vát và nhân hậu của chị. Ba mẹ chồng thương chị như con gái trong nhà, anh chị em nhà chồng thì thân thiết với chị không khác gì anh chị em ruột. Mỗi lần em út trong nhà có chuyện gì cũng tâm sự với chị và chị tìm cách an ủi, tháo gỡ cho các em. Chị về làm dâu cũng góp phần cùng với ba mẹ, chồng chị để nuôi các em ăn học nên người. Anh Vinh là con đầu, sau anh còn có bảy người em đang tuổi ăn tuổi học.
    Anh Vinh là công chức nhà nước. Lúc thời bao cấp khó khăn, lương hai anh chị cũng không đủ đắp đổi, nên anh chị đều phải chạy vạy làm thêm mới nuôi con ăn học và trang trải gia đình, hiếu sự với cha mẹ đôi bên. Ba đứa con anh chị lần lượt ra đời, đứa nào cũng khôi ngô tuấn tú và chăm lo học hành. Lúc này anh chị mua được miếng đất cách trường chị dạy khoảng 1km, rồi làm một cái nhà nhỏ đơn sơ nhưng ấm cúng, ríu rít tiếng trẻ thơ và lúc nào cũng tràn ngập hạnh phúc. Anh lúc này làm quản lý một cơ quan, có vẻ bận rộn hơn, thời gian dành cho cơ quan nhiều hơn. Ngoài việc quản lý anh còn được mời dạy kỹ năng sống cho các lứa tuổi vì anh ăn nói lưu loát, nghe rất xuôi tai bởi vì anh có kiến thức và tỏ ra rất am hiểu. Rồi năm tháng trôi đi cũng có thuyên chuyển đảm nhiệm một vài chức vụ khác trong thành phố. Chị dạy gần nhà và chị còn phát huy tài nấu nướng của mình mà lúc nhỏ mạ chị đã dày công bày vẻ. Ngoài giờ dạy chị làm thêm bằng cách nhận hợp đồng nấu đám cưới, đám hỏi, tiệc tùng cho người ta. Công việc đem lại cho chị thu nhập cũng rất đáng kể ngoài đồng lương nhà giáo thời bao cấp. Chị cũng thay nhà cũ, xây lại được một ngôi nhà hai tầng khang trang với trang thiết bị hiện đại, đủ tiện nghi ngay trên mảnh đất ngày xưa anh chị đã tạo dựng. Làm thì có tiền thật nhưng vất vả, tất bật lắm để tròn cả hai vai. Ai từng đi dạy sẽ không lạ gì các áp lực công việc. Tới lớp lo dạy đủ tiết, về nhà còn phải chấm bài, soạn bài và ghi chép các loại sổ sách. Có khi giáo án, và cả những loại sổ sách rườm rà, không thiết thực gì cho việc dạy học mà chỉ là phục vụ thanh tra kiểm tra mà thôi. Ngoài ra còn phải thao giảng, dự giờ… đủ các kiểu. Chị dậy đi làm từ 3 giờ sáng, đến 7 giờ sáng, sau đó giao lại cho bộ phận khác trong nhóm dịch vụ của chị tiếp tục công việc rồi chị lại hối hả tới trường cho kịp giờ dạy. Trong lúc chồng con chị vẫn còn yên giấc điệp. Có lần chị dậy lật đật, đánh răng rửa mặt và trang điểm qua quýt tới chỗ làm. Chị vớ lấy cây bút chì kẻ viền môi màu đỏ mà chị tưởng là bút chì kẻ lông mày. Chị đưa tay quệt nhanh 2 vệt trên đôi lông mày rồi tất tả lên xe, tới chỗ làm. Tới nơi ai cũng lo công việc của mình: người gọt rau củ quả, kẻ tỉa bông trang trí, người hông xôi, luộc gà… Đến lúc gần sáng bỗng có một em nhân viên cười nghiêng ngửa vì nhìn thấy đôi lông mày của chị màu đỏ. Nó la lên:
    – Ôi trời! Chị Xíu hôm nay trang điểm độc và lạ quá! Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, em chưa thấy ai kẻ lông mày màu đỏ chót rứa tề!
    Thế là cả nhóm phá lên cười, đau cả bụng.
    Chị vui tính, hòa nhã lại siêng năng nên chị em ai cũng thương. Tới trường chị cũng rất được lòng đồng nghiệp. Bởi chị tốt tính, nhân hậu, thương yêu học trò và làm việc lúc nào cũng đầy trách nhiệm. Duy chỉ có sếp là giữ thái độ khó hiểu. Khi thấy chị làm việc như thế mà việc trường vẫn tròn vành vạnh. Nếu muốn tìm cơ hội để làm khó nhau thì không có dịp nào tốt hơn là thanh, kiểm tra trong đó có dự giờ và soi hồ sơ sổ sách. Mỗi lần thanh tra cấp trên về trường, họ thường dự giờ 3-5 người. Sếp chỉ ai thì họ dự giờ người đó (Nay thì bỏ rồi, giờ chỉ còn gọi là thanh tra nội bộ trong trường. Nhưng có người cả đời dạy học ít ai dự giờ vì những lý do khác nhau.)
    Thế là có lần vào lúc 12 giờ trưa mà sếp báo chị là chiều nay lúc 1 h 30 có đoàn thanh tra về và chị là một trong những GV cần dự giờ. 1 giờ chiều chị hớt hơ hớt hải tới trường, vừa chuẩn bị hồ sơ, sửa soạn tiết dạy, chị vừa làm vừa khóc vì thấy có vẻ như bị ép. Nhưng cuối cùng chị cũng hoàn thành các tiết dạy thành công và đạt kết quả tốt. Kể sơ sơ vậy để biết cô giáo, người chị của tôi đã vất vả như thế nào của để có cơ ngơi như ngày hôm nay. Trong lúc anh rể tôi thì với đồng lương nhà nước, nhưng đi về quần áo bao giờ cũng bảnh bao, càng ngày càng trẻ đẹp, ra dáng đàn ông trí thức, lịch lãm lắm!
    Các con chị được học hành nên người, đứa nào cũng có công ăn việc làm ổn định. Anh chị cũng đã hoàn thành việc dựng vợ gả chồng cho con. Cũng là lúc sức khỏe chị ngày càng xuống sắc. Da dẻ không còn nõn nà, mái tóc không óng mượt như hồi trẻ nữa. Những năm tháng việc vàn bù đầu đã in dấu lên khóe mắt và khuôn mặt của chị. Tuy vậy chị bước vào thu vẫn là một phụ nữ đẹp. Chị làm việc vất vả là vậy nhưng cũng rất chiều chuộng anh. Ngay cả những việc như anh muốn trở lại “chiến trường xưa” ở một tỉnh khác thăm cô bồ cũ mà chị cũng đồng ý và cùng đi với anh. Chị nói cho anh thăm một lần cho anh khỏi eo oóc vì chị biết cô ấy nay cũng lớn tuổi rồi, nhan sắc cũng đã phai tàn. Khi gặp lại quả thật, sau mấy chục năm anh nhìn người cũ không ra. Chị ấy già nua quá, thế là từ đó về sau anh không còn muốn nhắc lại chuyện đi thăm người cũ nữa.
    Anh chị giờ đã về hưu, sau khi nghỉ hưu chị vẫn tiếp tục đi nấu nướng một thời gian nữa. Nay có lẽ cũng mệt mỏi rồi, sức người có hạn mà! Chị cũng không còn đi làm thêm nữa. Con cái đã lập gia đình ra riêng và có cuộc sống ổn định, những tưởng chuyện hôn nhân của anh chị đến đây có thể gọi là viên mãn. Không ngờ, bẵng đi khoảng chục năm không gặp chị vì tôi ở xa, gọi điện thăm chị thì chị nói anh chị đã li thân vì anh có người khác. Tôi nghe qua vậy không thể tin nổi nên an ủi chị rằng:
    – Chắc anh say nắng thôi, ít bữa nữa chán thì anh lại về. Chứ anh chị đã sống với nhau gần trọn cuộc đời thế cơ mà.
    Chị nói:
    – Họ bây giờ say nhau quá rồi, không thể cứu vãn. Người đàn bà mới của anh là người trẻ hơn chị tuy cũng đã có hai con riêng. Bây giờ chuyện này vỡ lỡ đã 2 năm.
    Chị cũng đã giấu cho anh chừng ấy năm nhưng nay có lẽ không cần thiết nữa nên chị thật thà kể cho tôi nghe! Tôi rụng rời cả người vì tôi không thể ngờ câu chuyện có kết cục tệ như vậy. Thật bất công cho chị khi mà một con người vừa đẹp người, vừa đẹp nết, lại giỏi giang, tháo vát đem hết cả sức mình chăm lo chồng con, lo tròn hiếu đạo với nội ngoại hai bên mà tuổi xế chiều lại đau khổ như vậy. Chị giờ về nhà mẹ đẻ sống, hàng ngày tụng kinh niệm Phật với mạ. Để lại cho anh một ngôi nhà khang trang với tiện nghi đầy đủ, chị gởi lại anh cho cô con gái đã có gia đình chăm sóc. Còn anh cứ qua lại hàng ngày vui bên tình mới.  
    Tôi không biết nói gì để động viên chị cả, bởi tôi thấy nghèn nghẹn ở cổ họng vì thấy đời bất công quá! Tôi vẫn không tin vào câu: “Hồng nhan đa truân” mà chỉ vận vào người chị của tôi xem như là môt câu nói để mà an ủi thôi! Chứ tôi vẫn nghĩ chị khổ vì không may vướng phải chữ bạc tình. Có người ta vụng về bao nhiêu, nhan sắc cũng không lấy gì làm nổi trội nhưng họ may mắn gặp người chồng tử tế, chung thủy, hết mực trân trọng, thương yêu cả đời. Nhưng anh thì có lý của anh, anh than vãn với bạn của chị là “Xíu ít quan tâm đến anh”. Tôi nghe kể như vậy thì tôi cũng không ngạc nhiên gì trước lý lẽ biện minh này. Khi chán người ta có thể đưa ra cả 1001 lý do chứ chừng đó mà nhằm nhò gì. Nhưng sao anh không nghĩ ngược lại là anh đã quan tâm đến chị chưa? Đã thấu hiểu vất vả một gánh hai vai, đi sớm về trưa, giấc ngủ không tròn của chị chưa? Lẽ ra anh phải đỡ đần chị thì mới đúng, chị việc ngập đầu thế kia mà, nhiều khi đi làm không kịp ăn uống gì, chị có để ý gì cho bản thân đâu vì chị bận lo cho gia đình. Chị ngủ không đủ giấc. Mỗi lần trường đi tham quan, đồng nghiệp thấy chị nằm đâu ngủ đó, Khi di chuyển trên thuyền, hay trên xe… mọi người khen chị dễ ngủ nhưng tôi nghe kể mà xót xa lắm! Tôi hiểu chị thiếu ngủ, thèm ngủ vì chị thường dậy sớm mỗi ngày trong một thời gian dài năm này qua năm khác như thế. Thời diểm 2-4 giờ sáng là thời gian người ta ngủ ngon nhất mà chị lại phải dậy rồi. Điều này đối với tôi thì chị phi thường quá. Tôi thì không thể học chị điều này. Vì tôi đêm nào lỡ  bận việc gì mà buộc phải hoàn thành cho xong như vậy chỉ  thiếu 1-2 tiếng đồng hồ trong giấc ngủ là ngày mai tôi cứ lờ khờ như con gà dịch rồi. Còn chị vẫn tươi mươi, đi làm năng nổ, nhiệt tình, việc nào ra việc nấy trọn vẹn thật đáng nể. Sức khỏe trời cho chị như vậy như thể là để bù đắp cho chị.
    Thôi giờ chỉ cầu mong cho chị và mẹ thật an lành, sức khỏe, thâm tâm an lạc tuổi già. Thỉnh thoảng có mấy chị bạn học cũ về chơi, chuyện trò với chị cho khuây khỏa phần nào. Tôi nay ở cách chị cả ngàn cây số, ít khi có dịp trở về để lại bên chị tỉ tê như ngày nào. Tôi cảm thấy mình thật có lỗi với chị, nhất là như lúc này. Nhưng tôi vẫn tin chị tôi luôn mạnh mẽ như chị đã từng như thế!

– Hoàng Thị Bích Hà

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.