Hôm nay,  

Trăng

10/10/202313:00:00(Xem: 2981)
Tùy bút

full-moon
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi…
 
Trăng thu, màu vàng cổ tích…
    Trăng thu, màu gợi nhớ dĩ vãng. Chỉ có một màu trăng mịn đẹp và huyền ảo óng ả là màu trăng ở quê nhà Việt Nam mà thôi. Dưới ánh sáng trăng thuần túy, nhà cửa, cây cối, sóng nước, vườn hoa, công viên, bãi cát… tất cả tạo vật như được bao phủ bởi một lớp lụa mỏng màu trứng sáo. Rồi trăng thanh đến thì có gió mát, hoa lá đong đưa và ngoài sân có tiếng trẻ nhỏ cười tíu tít ngồi nghe bà kể chuyện đời xưa. « Khi ấu thơ, ngồi trong bóng trăng, nhìn theo áng mây đưa » nay lớn lên ta đã đi xa dần, xa dần mãi cái nôi của tuổi thơ, cái nôi đầy ắp bóng trăng thanh để hòa mình vào nếp sống văn minh cơ khí chan hòa ánh điện. Ở đây, chị Hằng không còn là hình ảnh âu yếm nở nụ cười với thế gian vào mỗi đêm rằm, nhất là rằm tháng 8, trung thu không mùa nữa. Chị Hằng thậm thụt ở sau vẩn mây da cá lạnh lẽo như có quỷ nhập tràng, chị Hằng thui thủi đằng sau cùng những tòa nhà cao ốc chọc trời, chị Hằng không có chỗ đứng trong lòng người khi văn minh điện hóa vùng lên và tình yêu thiên nhiên tan biến, nên chị Hằng đến lặng lẽ đi âm thầm không ai biết ai hay.
    Nhưng rồi mỗi độ thu về, không gian chớm lạnh, chúng ta không khỏi chạnh lòng nhớ tới trăng, bóng hình mà khi xưa thi nhân Lý Bạch đã say sưa nhẩy ùm xuống nước để mong tìm thấy cho được… trăng, có một thời kỳ nàng đã chiếm một địa vị độc tôn trong thi ca Trung Hoa và cả trong thi ca Việt Nam, Hàn Mạc Tử đã ca tụng trăng đồng nghĩa với yêu đương:
 
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi…
 
Trong khóm vi lau dào dạt mãi
Tiếng lòng ai nói ? Sao im đi ?
Ô kìa ! Bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe…
(Bẽn lẽn)
 
Hàn Mạc Tử đã mơ được “ngủ với trăng” và ông đã ngửi được mùi của trăng:
 
Thơ em cũng giống lòng em vậy
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng… 
 
Có lúc như cuồng si trăng, HMA đã cao to:
 
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên ước hẹn hò
 
Khi tỉnh lại, ông nhận riêng trăng của mình:
 
Trăng vàng, trăng ngọc bán sao đang
 
Cũng một vầng trăng ấy, Quang Dũng, người ở Sơn Tây, đã tả “cố quận” dưới trăng như sau:
 
Trăng sáng vẫn vờn đôi bóng cau
Ngồi đây mà gởi nhớ phương nào
Gió mát lung linh vầng bắc đẩu
Tiếng hè ếch nhái rộn bờ ao
Ngồi đây năm năm miền ly hương
Quê người đôi gót mãi tha phương
Có những chiều, chiều trăng đỉnh núi
Nhà ai chà gạo giã đêm sương
 
Em ơi, em ơi đêm dần vơi
Trông về phương ấy ngóng trông người
Trăng có soi qua vầng tóc bạc
Nẻo về cố quận nhớ thương ơi…
 
Một thi nhân khác, Yến Lan, đã mang trăng rải lên mình ngư ông bến My Lăng, đã mang trăng phủ lên mình chàng kỵ mã oai hùng dựng một cảnh uy nghi và nên thơ như cổ tích nhiệm màu:
 
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buồn câu.
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
 
Ông không muốn rung người qua tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Và đìu hiu, đìu hiu trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
 
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời nhưng chỉ giải trăng trăng
Chiều nghi ngút dài trôi về nẻo quạnh
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng
 
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng trăng đầy màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
 
Thi hào Nguyễn Du, trong tác phẩm bất hủ, “Đoạn Trường Tân Thanh” đã nhân cách hóa trăng, giao cho trăng một nhiệm vụ đi theo dõi nàng Kiều. Khi Kiều nặng lời thề thốt cùng Kim Trọng, vầng trăng sáng tỏ làm chứng cho đôi người trẻ:
 
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
 
Buổi tối Kiều vừa đi lễ Đạp Thanh về, vừa thổn thức vì bóng hình Kim Trọng, vừa tương tủi cho thân phận ngôi mộ Đạm Tiên, lòng Kiều đang ngổn ngang trăm mối, thì cũng bóng trăng đến, đến tò mò qua song cửa, đây không phải là bóng trăng kiểu “Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn”, mà là một óng trăng tọc mạch và hiếu kỳ, muốn chọc ghẹo tâm tư rối bời của Thúy Kiều:
 
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấm nước cây lồng bóng sân…
 
Rồi khi đêm đã khuya, Kiều đánh bạo lẻn sang nhà Kim Trọng, vầng trăng đồng lõa:
 
Tiêng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
 
Qua bao nhiêu trôi nổi lặn lội, Kiều về sống với Thúc Sinh như vợ chồng, khi người chồng ra đi, nàng ở lại, nàng nhớ thương và tưởng chừng:
 
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm đường.
 
Ở điểm này Nguyễn Du và Hàn Mạc Tử gặp nhau:
 
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi.
(Một nửa trăng) – HMT
 
Đó là những vầng trăng rung động của thi nhân. Và vầng trăng còn là một cái gì thật gần gũi với đời sống trẻ thơ Việt Nam, trong “trăng rằm quê ngoại”, Kiên Giang đã hứa hẹn qua lời mẹ ru con:
 
Con ơi con ngủ cho say
Đợi phiên đò chót mẹ đi chợ Đồng.
Mẹ tìm hoa tím, hoa hồng
Tối nay mẹ phất đèn lồng trung thu.
 
Trẻ em Việt Nam mà nghe phất đèn lồng trung thu thì đứa nào đứa nấy mừng lắm, mừng đến nỗi bỏ cả ăn cơm. Tại vì đấy là rằm tháng tám là tết nhi đồng. Tết nhi đồng trẻ con sẽ có lồng đèn đủ thứ con, đèn con cá, đèn con thỏ, đèn con gà, đèn ông sao, đèn bươm bướm… Chúng sẽ có bánh trung thu, bánh dẻo, bánh nướng ăn ngon miệng, chúng sẽ tung tăng nối đuôi nhau rước đèn và cùng nhau hát vang:
 
Tít trên cao dáng tròn xinh xinh
Soi xuống trần ánh sáng dịu dàng
Rằm tháng tám bóng trăng trong sáng
Em múa ca vui đón chị Hằng
Tùng dinh dinh cắc tùng dinh dinh !
Tùng dinh dinh cắc tùng dinh dinh !
Em rước đèn này đến cung trăng.
 
Ở Việt Nam, gần trung thu, làm cha mẹ ai cũng lo chuẩn bị mua đèn mua bánh cho con, ai không có cho con thì tự coi như thiếu bổn phận. Nhà văn Tả Châu Vũ Trọng Phụng, đến lúc lìa đời, ông cứ ấm ức mãi: “Con tôi nó chỉ ao ước có mỗi một cái lồng đèn con cá mà tôi cũng không mua nổi cho nó.” Nhà văn Việt Nam đa số khi nào cũng nghèo.
    Tôi chạnh lòng nghĩ về ông Vũ Trọng Phụng. Làm cha mẹ, ai cũng thông cảm nỗi buồn không có tiền mua đèn trung thu cho con. Ông không gặp thời, ông sinh ra quá sớm và thời vận mạng của ông đã qua đi.
 

– Chúc Thanh

(Paris, 9/2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Người thì bảo “Chiến Tranh Việt Nam” là cuộc nội chiến Bắc Nam, kẻ thì bảo đó là cuộc chiến chống xâm lăng, chống lại các đế quốc Cộng sản và Tư bản. Riêng tôi, là một bác sĩ phẫu thuật, tôi biết Chiến Tranh Việt Nam” đã là thảm họa của quê hương tôi, của dân tộc tôi..
Con Mén đi ngang, mùi hương bông bưởi từ mái tóc tỏa ra thoang thoảng. Thằng Mễn hít lấy hít để, laị lấy tay quạt quạt như muốn gom hương vào mũi, tụi thằng Chí, thằng Ròm… cười ngặt nghẽo làm con Mén thẹn thùng. Con Mén liếc một cái sắc lẻm.
Mau quá anh nhỉ, mới đó đã hai mươi chín năm. Không ngờ đi ăn cưới người cháu vợ ở Cali, gặp lại anh ở phố Bolsa sau gần ba mươi năm.
Tôi không có thói quen viết về những nhân vật nổi tiếng đã qua đời; dù để “dựa hơi” hay là trút tất cả bất bình/phẫn nộ cho những người không thể nào tự biện minh được! Do đó khi hay tin nhà văn Mai Thảo qua đời, tôi chỉ biết âm thầm niệm kinh/cầu nguyện cho linh hồn anh Mai Thảo được về cõi Vĩnh Hằng!
Y Uyên tên thật Nguyễn Văn Uy, sinh năm 1940 tại làng Dục Nội (nay thuộc xã Việt Hùng), huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, Bắc Việt. Là con cả trong gia đình có 9 người em, năm 1954 cùng gia đình di cư vào Nam, cư ngụ tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. Học trung học tại các trường Nguyễn Trãi, Chu Văn An (Sài Gòn). Tốt nghiệp trường Quốc gia Sư Phạm Sài Gòn năm 1964, dạy học tại Tuy Hòa, Phú Yên từ 1964 - 1968.
Yasunari Kawabata sinh năm 1899 và mất năm 1972. Gia đình ông sung túc có truyền thống văn hóa cao. Cuộc đời ông nhiều tang tóc. Ông sớm mồ côi cả cha lẫn mẹ. Lên bảy, ông mất bà nội. Người chị độc nhất cũng qua đời khi ông mới lên chín. Tang tóc làm tuổi thơ ông không bình thường, và phải chăng đã tạo ra nét mất mát bơ vơ trong văn chương ông.
Đây là tựa đề một tác phẩm văn học rất dễ thương của nhà văn Vũ Bằng. Ông bắt đầu viết từ tháng Giêng 1960, tiếp tục viết 1965, và hoàn thành vào khoảng 1970 – 1971. Hơn mười năm cho một quyển sách, có thể là dòng suy tưởng của tác giả bị gián đoạn do công việc mưu sinh, có thể tác giả chưa nắm bắt được sự rung cảm của riêng mình.
Cái tin khoa học gia Alan D chế tạo siêu máy tính với hệ điều hành cực kỳ tân tiến làm chấn động cả thế giới, hệ điều hành mới với trí thông minh nhân tạo giờ đây sẽ giải phóng con người. Con người chẳng cần phải làm gì nữa, bọn robot sẽ thay người làm tất cả mọi việc từ sản xuất trong hãng xưởng, nông trại, việc nhà… thậm chí cả ra trận luôn.
*Alfred D. Sulfridge, bác sỹ Trung Tá Không Lực Mỹ tại phi trường Trà Nóc, Cần Thơ. Hồi năm 1970 anh thường đến hợp tác làm việc với tôi tại bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa, Cần thơ. Bác sĩ Sulfridge là người bạn của tôi về chuyên môn, phẫu thuật, mặc dầu anh ta nhỏ hơn tuổi 2 tuổi.
Ngoài sảnh cả một biển người loi nhoi dáo dác tìm người thân của mình, Dean D mũ lệch, kiếng đen bước đi khệnh khạng ra vẻ lắm, nhiều ánh mắt nhìn theo tỏ vẻ thèm thuồng pha lẫn ngưỡng mộ.
Hùng mơ màng, suy nghĩ. Đã nhiều lần anh chàng tự nhủ, ừ, tại sao lại không, tại sao lại không nghĩ nhỉ. Không có gì quý hơn độc lập tự do, thì tại sao lại không tận hưởng cái quyền độc lập và tự do không giới hạn này, nghĩ. Nghĩ thế, Hùng cứ một mình tiếp tục ung dung suy nghĩ, đố đứa nào báo cáo, chúng mày có giỏi thì kiểm thảo xem.
Trong suốt một thời gian dài, gần như những năm cuối trung học, gia đình tôi không có một kỳ nghỉ hè nào vui vẻ bên nhau. Tất cả đã chấm dứt từ cái mùa nghỉ hè năm lớp chín, khi bố tôi phải lòng cô thư ký của ông. Mà cô thư ký ấy lại chính là cô giáo cũ của tôi, người tôi rất quý mến.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.