Hôm nay,  

Vui thì vui gượng kẻo là…

1/4/202408:10:00(View: 2321)
Tạp bút

old couple

Có một lần, tôi gặp bài của một tác giả viết về nước Mỹ, rất hay rất cảm động, bà ấy nói về chồng bà và gọi ông là « y của tôi », cái cụm từ thật thân mật, y của tôi, nghe hợp thời hơn chồng tôi, anh tôi, nhà tôi… nhứt là trong trường hợp mà tôi đang muốn nói về chồng của bạn mình, thì còn tiện và hay hơn nữa. Thí dụ: Chồng của bạn Liên, tôi gọi là y Liên, chồng của bạn Dung, thì tôi gọi là y Dung, chồng của bạn Thu, thì tôi gọi là y Thu…
    Đúng là nhứt cử lưỡng tiện mà thêm thân tình, không dài dòng hay khách sáo.
    Ô hay, sao không nói hay kể chuyện bạn mình, mà lại đi kể về y của bạn, thiệt ra thì bạn cùng phái, cùng lứa, gặp nhau hoài, giống nhau quá, có gì đâu mà nói! May ra mấy ông chồng có nhiều điểm sắc nét, cá biệt hơn các bà. Đồng ý nhe. Bắt đầu là y Dung, y Dung rất hiền, vui tính, mỗi khi ăn cơm chung ở nhà Dung xong, y Dung vội đứng lên, ân cần hỏi từng người: Bạn A, café nhé? Bạn B, Chocolat sữa? Bạn E, glace hay café đá?
    Anh hỏi cho có lệ, chớ anh nhớ là mỗi đứa đều thích thứ gì rồi. Đó, y Dung rất hiếu khách và rất “serviable“. Y Dung lễ phép có lúc đến như rụt rè, y gọi các bạn của vợ là chị, ok, nhưng có lúc y xưng là em, làm tụi tôi giật mình, tụi này già quá xá hả, hay cớ sao mà y này xuống thấp rất chân phương vậy? Hình như là y có nhỏ hơn tụi tôi một tí tuổi. Không quan trọng, y thiệt thà theo phong tục Việt Nam quý hóa và phải nói là rất khiêm cung.
    Y Dung thích uống rượu, điều đó tự nhiên, ngặt cái có lúc y uống quá tay, say mèm, phải tựa vô ghế mà đứng, nhưng y không nhận là y say dù có đôi lúc y nói loăng quoăng, cũng vô thưởng vô phạt, và y còn chút tỉnh táo, để lý luận giống thi bá Vũ Hoàng Chương:
 
    Trong men cháy
    Giác quan vừa bén lửa
    Say… say không còn biết chi đời
    Nhưng em ơi,
    Đất trời nghiêng ngửa,
    Đất trời nghiêng ngửa,
    Mà thành sầu không sụp đổ đâu em!
   
Thành sầu của y Dung ở đây, y bảo không phải là sầu tình mà là sầu vong quốc! Y Dung rất vui khi được đi Việt Nam làm từ thiện hay cứu trợ y tế. Y hay tháp tùng các hội đoàn bác ái của Missions étrangères de Caritas để thông ngôn, để phát thuốc hay mổ mắt miễn phí cho đồng bào nghèo ở vùng quê vùng núi hẻo lánh, y là thành viên của giáo xứ ma mère mariculeuse. Chỉ khi đi Việt Nam làm việc công ích xã hội là y lanh lẹ, tỉnh táo hẳn lên, đúng là “một sói con sắp sẵn“ lên đường.
    Mới đây, tôi gặp y Dung, y than năm nay ở quê hương Việt Nam, vẫn đầy bão lụt hà rầm, mà không còn ai khởi xướng cứu trợ nữa, vì mấy năm qua có những người đã làm đã mang tiếng, không dám làm nữa, người chưa làm, muốn làm cũng sợ vạ lây. Nhà nước cộng sản thì mặc kệ dân, sống chết kệ dân. Thế giới rầm rộ chuyện chiến tranh bầu cử, ai cũng làm lơ.
    Thấy y buồn, tôi mách y tìm tới câu lạc bộ của Đỗ Quyên. Gọi là câu lạc bộ thì không đúng lắm, mà đó là nhà tư của Đỗ Quyên, nhà rộng rãi khu yên tĩnh và khá sang trọng. Mỗi cuối tuần, chủ nhà làm tiệc, món ăn nhiều và ngon, bầy đầy trên các dãy bàn dài, chả giò, nem nướng, thịt nguội, gỏi, xôi, bánh bao,v.v… Ai muốn dự tiệc, cứ đến và nhớ gọi cho ĐQ một tiếng trước, vì vấn đề an ninh, bạn đến, bạn cứ góp 20 euros và ăn uống tùy thích, ở đó bạn sẽ gặp bạn cũ, có thêm bạn mới, có thể có người cùng bàn thảo quan điểm chính trị, có thể tìm ra bạn tâm đầu ý hợp… và tìm được cả người yêu.
    Mấy bữa sau điện thoại hỏi y: Sao, tới nhà Đỗ Quyên có vui không? Đỗ Quyên là con chim nho nhỏ, có cái cổ màu đỏ xinh xinh. Nói năng rất tình và ưu ái! Chuyện đó biết rồi, mà hỏi y có gặp ai mới vui không?
    À có, có gặp một cái toilette đóng cửa trong kín mít, đập cửa mãi, toilette không chịu mở ra, các bà các cô xếp hàng chờ mãi không được, bí quá phải nối đuôi sang quán café ngoài phố xin cầu cứu…
    Sao Đỗ Quyên lần này kỳ cục vậy?
    Không phải là lỗi ở ĐQ, mà là thằng con trai duy nhất của cô ấy, nó không bằng lòng mẹ nó làm tiệc đãi hoài, nên nó lặng lẽ khóa trái cửa hai nhà vệ sinh lại, rồi bỏ đi chơi xa không nói, thấy cũng vui.
    Sau cùng y kết luận, nói chung ĐQ chịu khó, có thiện chí làm việc cho mình và cho cả mọi người, kẹt cái nhà đông quá, ồn như cái hội chợ, nên con, nó không chịu được.
    Sau y Dung, giờ nói tới y Liên, là chồng của bạn Liên. Y này lanh lẹ lắm, vợ chồng y có tổ ấm ở xa, tận Nice, một lần ba đứa bạn gái tôi rủ nhau xuống thăm Liên và y Liên. Lúc tụi tôi vô tới nhà, y đang bận làm vườn cắt cây cưa cành ngoài vườn rộng. Chập sau xong việc y vô chào, rồi chỉ vô four bếp, nhanh miệng: Chào quý vị, quý vị đi đường xa mệt không? Này, tôi có nướng sẵn mẻ khoai lang mời quý vị, trong lò nướng đó. Khoai ngon đáo để.
    Y có lanh thiệt mà cũng không lẹ bằng tụi tôi, khi sau dòm trong four, không còn một miếng vỏ khoai. Y cười hơi bẽn lẽn: O, cám ơn quý vị tận tình chiếu cố.
    Khoai đã trôi hết vào chỗ vô thủy vô chung…
    Cám ơn, mai tôi sẽ nướng cho một mẻ nhiều gấp đôi chỗ đó.
    Hôm sau thì ăn điểm tâm xong một lúc, y rủ ba đứa tôi ra vườn tập tài chi. Y nổi tiếng về nghề dậy aikido cho dân Tây trẻ quanh vùng y ở. Nhưng hôm đấy, có thấy y Liên dậy võ vẽ gì đâu, y chỉ dậy tụi này đứng, đứng cho vững, đứng trên hai chân, rồi trên một chân và chân kia co, dang theo đủ chiều. Một  hồi có đứa sốt ruột mới hỏi: Võ của anh là võ gì ? Aikido, taekwondo hay judo… hay chỉ có võ đứng thôi?
    Võ tự vệ, võ tấn công hay Việt Võ Đạo… thì trước hết phải tập đứng. Không đứng vững mà ra đòn một cái, rồi té lăn cổ ra đất thì đấu, đá, đỡ được ai.
    Tụi tôi đang xáo xào nhi nhô, thì Liên đứng trong cửa sổ bếp phán rằng: Thôi, dẹp cái trò đó đi, y của tôi ! Tụi nó xuống đây để tâm sự vui buồn với nhà chứ có phải xuống để tập vài miếng võ quèn đó đâu. Lỡ làm sái tay, sái chân nó đi rồi mới là phiền.
    Anh vừa đi vô nhà vừa kể, tôi mới quay lại dậy võ là nghề xưa vài ba năm nay, trước kia tôi chuyên làm hồ sơ giấy tờ cho những người tị nạn ở foyer bên kia đường. Họ là người Việt mình, có cả nhiều người Ấn Độ, Arabe, Tunisie… Họ tội nghiệp cũng như mình, phải bỏ quê hương mà tới đây tạm cư, mặt mày ngây ngô y cây chưa cắn rễ.
    Ngoài việc làm giúp đỡ cộng đồng thiện nguyện, lúc ở nhà, y Liên cũng hay đỡ tay đỡ chân cho Liên trong nhiều công việc nội trợ. Nhưng lúc vui thì làm, lúc buồn, buồn nghĩ về chuyện gì xa xăm là ý ngưng, không thiết động tay động chân nữa.
    Ngày Noël, ngày Tết cuối năm, ngày lịch sử 30-04… y nói y đang bị đắm tàu, y lẩm nhẩm đọc lại đĩa hát “les nauffragés de la liberté“. Liên kể lại trong một năm, y “đắm“ lại một vài lần, còn thường, y siêng tập luyện với học trò. Học trò rất yêu quý y.
    Có một lần đó, Liên bị cảm cúm sao đó, sốt và nằm bẹp trong giường. Y hăm hở nói: Để anh nấu cháo hành cho em ăn là đỡ, anh nấu cháo ngon, nhừ, chín rền. Y đi lấy xoong vo gạo, đổ nước, đặt lên lò và bật bếp, xong, yên trí, y ra salon ngồi vắt vẻo, mở tivi, coi hết đài nọ sang đài kia. Mãi khi có mùi khen khét bay ra, y mới nhớ tới cháo. Liên bảo cháo có khét, không sao, mình hớt lớp cháo trên ra nồi khác. Cháo khê ở đáy nồi bỏ đi. Nhưng y không nghe kịp sao đó, y vội đi lấy cây robot, cắm điện và soẹt… soẹt… soẹt… mấy giây sau, cả nồi cháo đầy, trộn lộn từ trên xuống dưới toàn là mùi khét, màu café… vậy là hai vợ chồng phải ăn cháo khét trong hai ba ngày… cũng ngon, báo hại người bịnh, đắng miệng, ăn cháo kiểu này khó nuốt lắm. Liên thương chồng, cứ vui vẻ ăn cho hết.
    Không kể lâu cái vụ nấu cháo khét, bù lại y Liên làm bếp rất giỏi, y đã từng đứng quán plats à emporter mấy năm mà nuôi nổi các con học xong đại học, chưa kể gửi tiền về giúp gia đình và đồng đội nghèo khó bên nhà.
    Y giỏi nhứt là cái món đùi gà ướp hành tiêu tỏi rồi quết foie gras lên, để thấm kỹ, xong đút lò nướng. Y Liên làm món này rất thơm ngon, mùi bay cùng ngõ, hàng xóm Tây phải sang coi, bắt chước, học nghề, nhưng họ không thể làm ngon qua mặt y Liên được. Nên khi y còn sống, y khoe Giáng Sinh năm nào y cũng có một số khách không đợi mà đến, đặt y là món gà quay hay nướng với gan ngỗng béo. Y khoe là phải nâng niu chăm sóc và kín đáo khía sâu cho gia vị thấm trước một đêm, hôm sau mới bỏ four quay. Y canh đến giờ khách đến lấy là đồ nướng vừa chín, ra lò, vàng, giòn rụm và thơm điếc cả mũi.
    Y có nhiều học trò, có đứa trả tiền đúng cuối tháng, có đứa nghèo, thiếu… mà mãi sau khi y ra đi, vẫn lác đác có đứa mang tiền lại nộp và thẫn thờ.
    Trong một đêm, y bị cảm nhẹ và ra đi vĩnh viễn không kịp từ biệt ai. Chúng tôi, gia đình và học trò đều buồn, thương tiếc, có điều được an ủi là y ra đi lanh lẹ, như có cả phước báu sau cùng trong ngũ phúc của một đời người.
    Y mà tôi kể tiếp theo đây là y Thu, chồng của Thu, y này rất chịu khó làm báo cho hội đoàn, y đánh máy, y viết, y có rất nhiều ý kiến và tư tưởng để viết, y viết lách với các tờ báo ái hữu cộng đồng của chúng tôi một thời dài hơn 20 năm. Y có tài viết về mọi đề tài, kể cả lấy tin tức và bình luận. Ngày ấy, suốt từ thứ hai đến thứ sáu, y đi làm cho một hãng bảo hiểm để nuôi vợ con. Từ chiều thứ sáu là y đã sẵn sàng hiện diện trong cái phòng nhỏ thư viện cho chúng tôi mượn làm trụ sở báo, y Thu chăm chỉ công việc làm cho đấu tranh nhân quyền, tự do cho quê hương Việt Nam. Đi biểu tình ủng hộ tinh thần Trần Văn Bá năm nào anh cũng đến sớm, đi đầu tiên. Y Thu thổ lộ chỉ có những lúc làm việc có ý nghĩa cho quê hương là những lúc y sống thực, thực là con người. Còn cái việc kiếm ăn hàng ngày trên miền đất tạm dung chỉ là lêu bêu, là lục bình trôi vất vuởng, trôi không định hướng, trôi lang thang giữa biển khơi.
    Chúng tôi làm báo là tự lực, dựa trên nhân lực độc lập là tự nguyện của rất nhiều anh chị em sinh viên Việt Nam góp công sức. Các em viết bài, đánh máy, lên trang báo và đi lấy quảng cáo. Dù số trang có hạn, nhưng tháng nào cũng dành vài trang quảng cáo, để lấy tiền trang trải nhà in. Thường thì sinh viên thay nhau đi lấy quảng cáo và gặp chủ nhà hàng, đòi tiền kỳ trước, số tiền này tuy khiêm tốn nhưng góp gió thành bão, cũng được ít nhiều cho thủ quỹ trả công nhà in, đặng còn ra những số tiếp theo.
    Thưa là đi lấy tiền công quảng cáo cũng không dễ. Thường các chủ tiệm hay khất hay đi vắng nhiều lần. Cũng có những người hào phóng trả sòng phẳng và còn ủng hộ đóng góp thêm. Điều này không được quên nói. Nhưng phần những chủ hay khất lần, hẹn tới hẹn lui, thì đi đi lại lại mất công và tốn thì giờ.
    Y Thu có nhiều lần nghe nói đòi tiền quảng cáo hơi khó, y nói, tháng đó, y đi cho. Tháng đó, tháng 12, giáp Tết, y nói y sẽ cố đòi được khá tiền về hy vọng in một số báo xuân đẹp, xôm tụ, dầy và phong phú để ra mắt đồng hương và các cộng đoàn bạn. Y y hẹn mà cuối tuần đó chưa thấy đến trụ sở làm báo. Chúng tôi nghĩ là y bệnh bất ngờ vì đã phải xông pha đòi nợ trong mấy ngày rồi, trời rét đậm đà có tuyết rơi khá dầy. Rồi có đứa đề nghị, mình gọi điện thoại cho anh Hùng, Hùng là tên y, coi ảnh đang ở đâu và có khỏe không? Nhưng điện thoại vừa reo thì y đã tới và đi vô phòng hội, cười, chào mọi người và tháo áo, mũ len treo lên ghế.
    Xin lỗi các bạn, mình kẹt xe…
    Rồi y đặt nhẹ lên bàn một xấp bạc mỏng, hình như là 5 tờ giấy 100 euros.
    Tiền đó nhé, anh thủ quỹ cất đi, nay mai trang trải tiền in.
    Xong y quay ra rót một ly nước trà đầy và ấm anh uống ực một hơi, như vừa nuốt xuôi đi một cục nghẹn.
    Mấy đứa trẻ lao nhao khen lấy khen để: Anh Hùng có duyên quá, kỳ nào đi đòi tiền cũng thành công, lại có nhiều nữa, bravo!
    Ờ, mình có duyên thiệt…
    Cái duyên đi đòi nợ thành công của y Thu, mãi sau này mới nghe nói lại là như vầy: Khi anh tới hỏi xin tiền quảng cáo, ở một tiệm ăn Á Đông lớn giữa khu phố 13, bà chủ mời anh uống nước trước tiên, rồi tiếp theo mới hạ hồi phân giải là: Hàng họ ế ẩm quá, vậy mời các anh ăn phở trừ tiền quảng cáo… được không?
    Thì ra, những lần đi mà không được việc, y toàn bỏ tiền túi ra cho tập thể in báo, y cũng không nói, sợ anh chị em thối chí, mất tinh thần. Giấu mãi rồi có một ngày, có một em sinh viên biết, kể ra, anh chị em ngỡ ngàng, rồi cũng có đứa cắc cớ hỏi: Sao anh không ăn phở đại đi anh Hùng!
    Không, ăn phở và làm báo là hai chuyện riêng rẽ. Rồi từ đó, y phán rằng, in báo, cứ gửi đi, thâu được bao nhiêu, thừa thiếu bao nhiêu, chúng ta, mọi thành viên, mỗi người, nhón tay bỏ vô quỹ ít nhiều tùy khả năng, còn thừa Hùng lấy, thiếu đâu Hùng phụ, đắp đổi cho đủ in, chúng ta góp gió làm bão, mình bỏ ra tí tiền mình được nói cho thiên hạ nghe bao nhiêu điều muốn nói.
    Vì sao ư? Chúng ta là những kẻ đắm tàu, chúng ta không kêu cứu, ai biết đâu ở đâu “au secours!“ Đại để là y Thu can đảm và nặng ký, khá nặng ký. Hay đúng ra, trong cùng một hoàn cảnh, nữ giới đa phần có thể vui cái vui thành đạt của con cái, vui trong công việc làm, trong giao tiếp xã hội, v.v… còn các y, đại để như các y vừa kể trên, các y cũng sống, cũng làm việc thì làm việc đấy, cũng sum vầy con cái đấy, nhưng làm thì làm vậy, vui thì vui vậy, chớ ở môt bên lòng, các y là những kẻ đắm tàu, nặng ký, nhớ lâu nên chìm sâu. Cho nên:
   
Vui thì vui vậy kẻo là
Ai tri ân đó mặn mà cùng ai.
 
Cám ơn cụm từ « y của tôi » của chị Trương Ngọc Bảo Xuân.

 

-- Chúc Thanh

Déc 2023

 

 

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.
Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người.Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ.
Trời Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services -Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở thanh bình.
Thôi thì khỏi nói, mọi người tay bắt mặt mừng, ai ai cũng vui như hội. Bà Tám đầu hẻm oang oang: - Thằng nhỏ coi bộ phổng phao ghê vậy ta, hồi còn ở đây gầy nhom, da bánh mật. Nó qua bển một thời gian giờ thay da đổi thịt quá, nếu đi ngoài đường chắc tui nhận hổng ra. Cả nhà quây quần tíu tít, bia bọt khui lốp bốp. Tuị bạn ngày xưa bá vai kề cổ giờ cũng ra ông nọ bà kia hết trơn. Chỉ có mỗi thằng An là lẹt đẹt làm anh công chức quèn thôi!
Kính Anh Chị Lê Thanh Tôi nhận được thư anh chị cách đây mươi ngày. Tôi định viết thư trả lời anh chị hay liền, và cám ơn anh chị đã nhiệt tình đỡ đầu hai quyển sách đầu tay của tôi mà tôi tự xuất bản. Nhưng không hiểu tại sao tôi mãi chần chờ. Đêm nay, tự dưng thức giấc, đọc lại thư anh viết, lòng cảm thấy bồn chồn. Lời thư anh mộc mạc, ngắn gọn, chứa chan tình cảm và nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ của anh, của người tuổi đã ngoài 70. Anh đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử của đất nước.
Như mọi buổi sáng, tôi vừa dùng điểm tâm vừa xem tin tức trên Internet. Sau đó, tôi vào Inbox để xem emails của bạn hữu. Khi thấy youtube tình khúc Hai Vì Sao Lạc – do ông Trần Nắng Phụng chuyển – cũng là lúc tôi chợt nhớ trái avocado để quên nơi bếp. Tôi “bấm” vào youtube rồi rời phòng computer, đi xuống lầu, với dụng ý khi tôi trở lên thì phần nhạc dạo đầu sẽ chấm dút.
Tháng ba, dường như mùa đông chỉ mới bắt đầu sau một tháng thời tiết ấm áp. Nấc đo màu đỏ của hàn thử biểu nằm trên dương độ và có khi vượt qua khỏi con số mười. Mọi người hân hoan cho rằng Paris năm nay không có mùa đông. Nhưng những cơn mưa ướt át, những luồng gió lạnh lẽo từ một cơn bão nào đó đã ào ạt thổi về trên phố từ mấy ngày nay. Con đường trước nhà lúc nào cũng vắng hay tôi chỉ nhìn thấy nó mỗi khi không còn ai. Thói quen trước khi vào giường ngủ và thức dậy khi đêm chuẩn bị tạ từ. Đèn vàng và sương mù, những ngôi nhà, cây cành đổ bóng ngoài khung cửa là nơi của quá khứ tôi, nơi hồi tưởng, dù vui dù buồn. Nhớ lại trong đêm nay… cả trăm điều muốn khóc1, một lời hát lấy từ một bài thơ của một nhà thơ quá cố mà tôi rất thích và tôi nghĩ đâu phải riêng tôi mới có cả trăm điều muốn khóc. Của chúng ta, bao người ly hương, làm gì lại chẳng có những đêm nhớ lại với trăm điều.
Thứ hai 6 tháng 4 South Carolina tiểu bang cuối cùng của các tiểu bang nằm dọc theo phía Đông của sông Mississippi (giòng sông dài thứ nhì của Bắc Mỹ) ban hành lệnh "Shelter in place". Cùng lúc, Indiana kéo dài "lệnh cấm túc" thêm 14 ngày nữa trên toàn tiểu bang.
Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hãy còn nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền hình. Đã mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ còn nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người bình thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà còn là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua dòng lịch sử nghiệt ngã của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Tiếng giày cao gót lụp cụp tiếp theo sự xuất hiện của một cô gái làm Vinh ngơ ngẩn đến lặng người. Trời ơi! Sao trên đời lại có người đẹp thế này! Nàng mặc nguyên cái áo dài màu xanh da trời đồng phục của tiếp viên hàng không Air VietNam với huy hiệu rồng vàng nổi bật trên cổ áo ôm lấy một bờ ngực vun đầy và vòng eo chết người. Gương mặt trái soan với đôi má hây hây điểm trên làn da trắng mịn màng, bờ môi mộng đỏ hình trái tim, cộng thêm đôi mắt bồ câu đen long lanh với viền mi cong vút dài rậm(thiệt đúng là chí lớn trong thiên hạ không đong đầy đôi mắt mỹ nhân). Tất cả như muốn nhốt cả hồn Vinh trong ngây dại chìm đắm.
Tiếng niệm chú rì rầm trầm hùng vang rền cả đại điện, bóng các tăng sĩ trong màu áo huyết dụ lắc lư, tay lần tràng hạt trong ánh đèn bơ lung lay trông thành kính vô cùng. Toàn bộ mọi người như nhập thần vào câu chú, thân người ngồi đó mà thần thức như ở cung trời nào chứ chẳng phải trên mặt đất này. Khói trầm phảng phất bay lên, pho tượng Phật trên toà tay bắt ấn kiết tường, mắt mở to như nhìn thấu những tấn tuồng của trò đời, thông suốt những nỗi đau của chúng sanh, biết tường tận tâm can của của mỗi người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.