Hôm nay,  

Phía Tây, Có Phải Là Vườn Eden* Không?

21/07/202423:12:00(Xem: 2289)

iStock-1208191602
Hình Istock.com

 

Berlin, ngày 26 tháng 12, 1964

 

Trước ngày ấy, tôi chưa bao giờ biết sợ. Là nỗi hãi hùng thật sự.

Vào buổi sáng lạnh buốt của tháng mười hai này, trong khi chúng tôi đang chạy xe lên đường dốc Filderstrasse, nỗi lo sợ thấm vào từng mảng thịt của thân thể tôi, đã bị bầm tím vì những miếng gạch được cho là để tránh đạn, khi tôi đang co rúm dưới cái vỏ bọc bằng tôn. Một nỗi lo sợ mạnh hơn cả nỗi buồn vì đã rời xa cha mẹ, anh tôi, bạn bè tôi, mà không được ôm lấy họ, cũng không thể nói rằng tôi yêu họ đến chừng nào.

Nói cho họ biết về dự định điên rồ này ư? Đó là điều không thể, họ sẽ tìm bất kỳ phương cách nào để ngăn cản tôi.

Nỗi lo sợ ấy vượt qua cả tình yêu tôi dành cho Rolf hơn ba năm nay rồi. Nỗi đam mê choáng ngợp, chuyên nhất, dung hợp, đã chịu đựng sự chia ly không cưỡng lại được bởi Bức tường đã được xây đúng vào đêm 12 rạng ngày 13 tháng 8, 1961. Chỉ gần một tháng kể từ khi tôi gặp anh chàng xuất sắc kia, hăng máu mà cũng hơi gàn, làm lu mờ tất cả những kẻ khác.

Nhưng khi chúng tôi đã chọn giải pháp bỏ trốn, nỗi lo sợ hầu như đã chiếm hết tất cả những việc khác, tôi đã không chịu phần thua và quyết định hồi tưởng lại bằng tất cả những tế bào trong cơ thể mình. Bị kẹt cứng trong cái cốp xe hôi hám này, tôi hồi tưởng lại từng hình ảnh những lúc bên nhau, lắng nghe lại từng lời nói, sống lại từng sự vuốt ve, từng hơi thở, từng nụ hôn, để nỗi kinh hoàng qua một bên và chỉ nghĩ đến thời cơ thuận lợi này do định mệnh mang đến.

Thật vậy, từ một năm nay, những cư dân thành phố Berlin phía Tây được phép đến thăm gia đình họ ở khu vực phía Đông vào dịp các lễ lạc cuối năm. Thế nên Rolf qua mừng lễ Giáng Sinh với ông bà ngoại của anh, và nhà họ thì gần nhà gia đình tôi. Nhờ vậy mà anh và tôi đã quên nhau, khi anh ở lại bên nhà họ. Anh ấy hai mươi tuổi, còn tôi thì mười tám. Chúng tôi biết ngay mối liên hệ này sẽ kéo dài suốt đời.

Hai ngày trước, khi anh mới đến, Rolf đã kéo tôi ra riêng để nói rằng anh sẽ tranh thủ cơ hội do ý trời xếp đặt này để mang tôi đi xa, ra khỏi thành phố ngục tù của tôi.

-  Anh thấy ngày càng thật khổ sở, Anna ạ, anh không thể nào tiếp tục sống như thế nữa. Anh rất cần em. Ngay bây giờ.

Kế hoạch của anh ấy thật là hợp lý: anh ấy sẽ giấu tôi phía sau cốp xe Austin-Healey, một chiếc xe dạng rất thấp mà anh vừa mới mua bên Áo và đã tháo kính che gió ra. Chúng tôi chỉ cần đi qua bên dưới rào chắn, trong khi mấy tên cảnh sát nhân dân Vopo*2/ thì bận lo kiểm tra giấy tờ như thường lệ. Rolf đã tính toán nhiều lần, tính đi tính lại, anh lại còn xì bớt hơi các bánh xe: như thế cái xe sẽ không vượt quá 90 cms bề cao. Anh chỉ cần cúi đầu xuống, nhấn mạnh vào cần tăng tốc, thế là chúng tôi sẽ qua bên kia địa phận đất Mỹ! Một "bờ thành" nhỏ làm bằng gạch sẽ bảo vệ tôi khỏi những lằn đạn có thể xảy ra. Và rồi sau đó là tự do...

Nếu như anh thất vọng khi thấy tôi có vẻ hoài nghi, người yêu của tôi không dễ dàng bị thua. Anh lặp đi lặp lại phương án của anh trong từng chi tiết thật nhỏ nhất, cho đến khi tôi chấp nhận thì mới ngừng.



- Rồi gia đình của em thì sao nào? tôi cầu may anh sẽ đổi ý chăng.
- Em cứ tin anh đi, anh ấy trấn an tôi. Cái bức tường ấy rồi sẽ không trụ được lâu đâu!  


Sự việc đã được quyết định: ngày khởi hành sẽ là ngày kia.

Dĩ nhiên là tôi hôm trước đó tôi không hề chợp mắt được.

Kế hoạch quá dễ dàng ấy đáng lý ra phải kích thích sự ngờ vực của tôi chứ. Đằng này là không! Tôi dẹp bỏ nghi ngờ và sự lo âu của mình, và lao tới trước. Cũng giống như chiếc xe mui trần yêng hùng đang vụt nhanh trên con đường lát đá này, rồi bao nhiêu lần xe bị lắc mạnh kêu vang trong cái thân chao đảo của tôi là bấy nhiều lần nhắc nhở cảnh cáo:  " Thật là điên rồ! ",  "Các bạn sẽ bị chúng hạ sát mất thôi!"

Từ gần mười lăm phút, chiếc xe đang tiến tới một cách kiên quyết đến Điểm Kiểm Tra Charlie. Hiện giờ có lẽ chúng tôi đang cách chỗ ấy khoảng chừng vài trăm thước, tôi cảm nhận được điều đó khi thấy Rolf hãm bớt vận tốc lại, như thể anh cố tập trung toàn bộ sức lực trước cuộc xung phong cuối cùng. Rồi chiếc Austin lại chạy với vận tốc bình thường, trước khi ngừng hẳn.

Thế là xong. Chúng tôi đang ở đây, ở chỗ này, và không còn cách nào để trở lui được nữa.

Từ chỗ đang ẩn nấp, tôi nghe tiếng vù vù của động cơ bị nghẹt và tiếng những người đàn ông đang nói. Giọng họ vang âm cao, như truyền lệnh. Mỗi giây trôi qua đối với tôi như vô tận. Tại sao chúng tôi không đi tiếp được vậy cà?

ĐỨNG LẠI!

 

Bỗng dưng nỗi sợ hãi biến mất, chỉ còn sự sững sờ hoảng loạn, và toàn thân tôi dấy lên sự đau nhói đang tăng mạnh. Đầu tôi va vào những viên gạch và tôi bị bất tỉnh nhân sự.

Khi tôi tỉnh lại, tôi đang nằm ở lề đường, bên ngoài không khí thoáng mát. Trên mình tôi là chiếc áo choàng bằng dạ thô đen Rolf đã cởi ra và đắp cho tôi, còn anh thì đang nắm tay tôi, đôi mắt đẫm lệ, trong khi nhiều người đàn ông mặc quân phục bao quanh chúng tôi. Ôi, thì ra đây là thiên đường ư? Đúng rồi, tạm gọi như thế: chúng tôi đã sang bên kia bức tường. Bình yên vô sự. Anh ấy đã thành công.

Việc trốn thoát của chúng tôi đã khiến nhiều người bàn tán. Mẹ tôi thì nói đến chuyện ấy trong vô số thư mà bà gởi cho tôi, nhiều tháng sau đó. Còn các con của tôi thì sau này chúng được biết rằng khi đã đến đất Mỹ rồi *3/, cuối cùng, ngay khi Rolf thắng xe lại, trên mặt đường còn in dấu bánh xe kéo dài cả hơn sáu thước!

 

Emsie - Bài ghi lại từ một câu chuyện thật- tháilan dịch-

 

GHI CHÚ

*- Eden: vườn địa đàng-

*2/- Volkspolizei : Cảnh sát nhân dân, Đông Đức (1945-1990) - Cảnh sát viên có biệt danh là Vopo.

*3/-Theo Wiki: Checkpoint Charlie

Điểm Kiểm Soát Charlie là một  trong những cửa khẩu bắt buộc của Berlin , vào thời chiến tranh lạnh, để vượt bức tường chia thủ đó của Đức quốc, giữa Đông và Tây Đức. Điểm checkpoint này nằm trên đường Friedrichstraße (= đường Frédéric ), giữa quận Mitte ( lĩnh vực  Xô viết ) và Kreuzberg ( lĩnh vực của Mỹ)-

Có lẽ vậy nên phần cuối bài nói đến đất Mỹ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.
Xíu tiếp tục cuộc hành trình bất tận của mình, đừng tưởng Xíu chơi hoang hay đi rông, phiêu bạt giang hồ vô tích sự. Chính sự lang bạt kỳ hồ của Xíu và anh em nhà Xíu đã đem lại mưa thuận gió hòa, đem lại nguồn sống cho loài người và vạn vật muôn loài. Lần này Xíu quay về lại góc Đông Nam Á châu, nơi có dòng sông thiêng liêng chảy qua.
Tôi không phải là thi sĩ, nhưng chắc cũng giống như những thi nhân của đất Việt, thường gửi gấm tâm tình u uất vào những vần thơ của mình. Những bài thơ viết xong, tôi cặm cụi chép vào nhật ký, xen vào những lời than thân trách phận, hờn mây khóc gió. Cuốn nhật ký, tôi cất kỹ trong ngăn kéo ở cái table de nuit cũ kỹ bên cạnh chiếc giường nhỏ trong phòng ngủ. Cũng may là má chưa lục ra đọc lần nào...
Cuối cùng, vợ tôi cũng đồng ý một cách vui vẻ cho tôi lấy vợ bé. Một hành động vượt ra ngoài quan niệm ái tình nghiêm túc của bà. Vợ bé tên Hà, do vợ lớn đặt. Tên khai sinh của Hà là Đỗ thị 451. Vợ lớn nói, số này hên, cộng lại là 10. Hà lai Ái Nhỉ Lan. Ở lứa tuổi gần ba mươi, chưa lấy chồng, không có con, một thân hình phước đức cho bất kỳ người đàn ông nào, sáu mươi bảy tuổi, như tôi.
(Viết cho bằng hữu tháng tư 1954. Chúng tôi 300 thanh niên trình diện trại Ngọc Hà động viên vào Đà Lạt cùng hát bài ca Hà Nội ơi, năm 20 tuổi chưa từng biết yêu. Sau 21 năm chinh chiến, tháng tư 75 khóa Cương Quyết hát tiếp. Bao nhiêu mộng đẹp, tan ra thành khói, bay theo mây chiều. Ngày nay, tháng 7-2024 vào nursing home thăm bạn cùng khóa. Ba anh bạn đại tá lữ đoàn trưởng mũ xanh mũ đỏ cùng đại đội võ bị ra đánh trận Quảng Trị chỉ còn Ngô Văn Định. Ghé lại bên tai nghe Định hỏi nhỏ. /Bên ngoài còn mấy thằng,/ Còn liên lạc được 4 thằng. Ngoài 90 cả rồi.Tôi báo cáo./ Thằng Luyện mới đến thăm./ Định nói./ Luyện nhảy Bắc 21 năm biệt giam mà còn sống. Hay thật./ Tôi nói./ Bạn yên tâm. Ngoài này còn thằng nào chơi thằng đó./ OK bạn còn sống lo cho anh em.)
Năm Giáp Ngọ 1954 có thể gọi là năm đại diện cho tuổi thơ tôi. Chỉ trong một năm 1954 đã có quá nhiều biến cố xảy ra dồn dập trước mắt chú bé mười hai tuổi mà suốt trong đời chưa có thời điểm nào đặc biệt như vậy...
Dẫn nhập: chuyện này được viết khi sắp tròn nửa thế kỷ Sài gòn bị mất tên. Qua một phần đời của một vị Thầy dạy Toán, gắn liền với nhiều thăng trầm của lịch sử từ Việt Nam đến Mỹ, cùng nhìn lại những vết chân xưa với hy vọng các thế hệ kế tiếp học hỏi được nhiều điều để đưa được đất nước trở về vị trí "minh châu trời Đông"
Cây Phượng Vĩ Hoa Vàng có tên khoa học là Delonix regia var plavida thuộc họ Fabaceae có nguồn gốc từ Myanmar được sư trụ trì chùa Huyền Không Sơn Thượng mang về Việt Nam, đầu tiên được trồng ở Huế một số cây dọc theo con đường ở phố Ngô Quyền, ngã ba Phan Bội Châu, Lê Lợi... đã thu hút nhiều du khách đến ngắm cảnh và chụp hình. Hoa phượng vĩ vàng có tuổi đời lên đến 5, 6 chục năm, cây nhỏ hơn hoa phượng đỏ, ít lá và hoa có màu vàng tươi bắt mắt, thường nở từ tháng giêng, tháng hai và nở rộ và khoảng cuối tháng ba, đầu tháng tư, nên còn gọi là loài hoa “ chào mùa hè”. Hoa nở rụng tạo thành một “thảm hoa vàng” trên đường đi, gây nhiều ấn tượng cho những ai đi dạo trên những con đường này. Năm 2005, Công ty công viên cây xanh Sài Gòn mang về trồng một số nơi ở Sài Gòn nhưng chưa được nhiều.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.