Hôm nay,  

Vancouver Ký Sự

10/12/202421:12:00(Xem: 5427)

                                           

BokThan
HAI BOK TÂM VÀ BOK THÂN (đang nói) TẠI BUỔI FUND RAISING Ở NHÀ HÀNG VANCOUVER, CANADA

 

Trời Vancouver đang cuối mùa hè, sắp vào Thu, vẫn còn giữ lại một chút nóng ấm của mùa qua; thời khắc giao mùa đem đến một khung cảnh lãng mạn đầy thi vị và quyến rũ. Bầu trời xanh trong điểm xuyết những đám mây trắng nhẹ nhàng trôi lơ lửng. Ánh nắng vàng nhạt của buổi chiều tà chiếu nghiêng qua kẽ lá những tia nắng lung linh trên mặt hồ lấp lánh như những hạt kim cương nhỏ đính trên áo nàng Thu.

Hàng cây hai bên đường bắt đầu khoác lên mình chiếc áo mới với các gam màu vàng nhạt, màu cam, báo hiệu một mùa thay lá sắp tới. Những cơn gió muộn màng thoảng qua xua đi cái nóng còn sót lại của mùa hè oi bức. Gió mang theo hương thơm dịu dàng của hoa cỏ và không khí trong lành của cây rừng hai bên đường xa lộ dẫn về Vancouver. Mặt trời lặn dần sau núi, ánh hoàng hôn rực rỡ phủ lên vạn vật một sắc màu cam ấm áp báo hiệu một mùa lá rụng sắp đến tạo nên một cảnh sắc tuyệt vời và không gian tĩnh lặng, bình yên trong từng nhịp thở của trái tim.

Theo thông lệ trước đây, hằng năm vào đầu tháng 9, CVKer 65 Bok Thân có tổ chức buổi tiệc gây quỹ cho địa phận Kontum. Năm nào Bok Thân cũng thành công mỹ mãn, gởi về quê nhà nhiều số tiền lớn lao dùng cho các hoạt động bác ái của địa phận. Sau dịch cúm Tàu phù, kinh tế trì trệ, dân chúng cũng ngại đám đông nên Bok Thân phải uyển chuyển tổ chức 2 năm một lần; lần này là Đêm Tình Thương lần thứ Sáu.

Mặc dù có cả cộng đoàn giáo xứ hỗ trợ sau lưng trong việc tổ chức tiệc gây quỹ, một công việc không dễ dàng chút nào, Bok Thân vẫn là người cầm chịch, đứng mũi chịu sào, tất bật liên lạc, chạy tới chạy lui mệt phờ cả râu. Cũng may Bok Thân “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” nên ai cũng tưởng ngài phẻ re như con bò … không kéo xe! Vậy mà Bok vẫn lo lắng cho anh em CVKers chỗ ăn ở, đi đứng thế nào cho thuận tiện và thoải mái.

Sự tham gia của anh em CVKers là một động lực rất lớn, khích lệ tinh thần mạnh mẽ, là một “moral support”, một viên vitamin tăng lực thần kỳ giúp Bok Thân như được lên giây cót, phấn chấn tinh thần và thể xác đang hao mòn theo thời gian. Nhìn gương mặt Bok Thân sáng lên, nụ cười thật tươi khi ngài bắt tay từng anh em một. Anh em CVKers thì khỏi nói, ai nấy đều thích thú được góp phần vào ngày đặc biệt này và nhất là có dịp gặp nhau hàn huyên tâm sự và nói dóc cho sướng sau bao năm không hoặc chưa được gặp nhau.

Thật xúc động và tràn đầy hào khí khi quan khách đi dự tiệc gây quỹ cho Kontum, lại được gặp gỡ những “công dân” Kontum một thời, khiến buổi gây quỹ thêm phần ý nghĩa biết bao nhiêu. Các bô lão, Kontum senior citizen đứng trên sân khấu mở màn, đồng ca bài “Lạy Chúa, chúng con về từ bốn phương trời, lạy Chúa chúng con về từ khắp thôn làng …”. Lời ca như một làn gió mới đem đến sự thôi thúc, rộn rã trong tâm hồn tất cả khách tham dự đêm hôm đó. Ca trưởng Ngô Đình Hòa quả thật xuất sắc khiến khán thính giả vô cùng thích thú với 2 bài đồng ca của dân CVK Kontum.

Phái đoàn CVKers đi phó hội năm nay cũng khá hùng hậu, tổng số 19 người. Đầu tiên là các “võ lâm kiếm khách” đến từ miền Trung Tây gồm Bok Tâm Oklahoma dẫn đầu và hai cặp vợ chồng huynh đệ CVK 69, Hiền-Đạm và Hùng-Lan từ miền viễn Tây Hoa Kỳ, tiểu bang của các chàng chăn bò bắn súng nhanh như chớp. Trời xui đất khiến làm sao, trong chuyến bay trung chuyển, Bok Tâm và nhóm sư huynh đệ, không hẹn, lại gặp nhau trên chuyến bay từ Dallas đến Seattle, Washington. Đây là dấu hiệu báo trước buổi đại hội sẽ đầu xuôi đuôi lọt.

Bok Tâm về hưu đã gần 3 năm nên ngài tha hồ sống kiếp lãng du đây đó. Ở đâu hú một tiếng là ngài đáp lời “tú đờ suỵt”. Bok tâm sự với anh em rằng bây giờ hưu rồi, ngoài việc đi giúp các giáo họ lẻ, ngài vẫn vui thích được sống bình yên, khỏe mạnh, du lịch đây đó, ăn ngon và đặc biệt là uống cũng phải thật ngon mới OK. 

Phái đoàn thứ hai từ miền Nam California gồm vợ chồng CVKer 69 Thành-Lan và vợ chồng CVK 70 Thiên-Thêu, sẽ bay thẳng đến Vancouver, Canada, mà không ghé Seattle. Trong lúc nhóm này đang đằng vân giá vũ thì CVKer 67 Cửu, bí danh là anh Chín Đờn Cò, đã đáp xuống Seattle từ rất sớm, đang rung đùi, ngồi thưởng thức mấy lon bia ướp lạnh ở phi trường, mắt dõi theo những bóng hồng đây đó. Anh Chín vốn tính vui vẻ, dễ dãi nên “tới đâu thì tới”, mỗ cứ tà tà “èn doi’ từng giọt đắng trên môi.

Kiến trúc sư của toàn chuyến đi và cũng là đương kim võ lâm minh chủ của cả nhóm hiệp khách giang hồ từ xứ Kỳ Hoa là CVKer 66 Đậu Quang Đại đã có mặt tại Seattle từ mấy hôm trước, chuẩn bị nghênh đón tất cả quần hùng tại phi tràng SeaTac, sẵn sàng một chiếc full-size Van 15 chỗ ngồi. Khi tập hợp đầy đủ lực lượng, cả nhóm sẽ trực chỉ hướng Bắc, El Norte, tiến thẳng đến nơi phó hội. Bỏ nhỏ anh em CVKers một câu, anh Đại đang bí mật tham gia một “chiến dịch đặc biệt”, không giống như “special operation” của Uncle Putox bên xứ Nga La Tư, cho nên anh đến Seattle sớm hơn mọi người, khi nào thuận tiện, sẽ bật mí với anh em sau.

Riêng hai vợ chồng CVKer 70 Đức-Tâm bay riêng vì đang rong chơi với mấy anh em cọc chèo khác, tiếng Mẽo gọi là đám “The In-law”, mà tôi gọi là “The Out-law” thì đúng hơn vì đám này khi chịu quậy thì tới bến luôn. Đức-Tâm tách khỏi “đám ngoài vòng pháp luật” xong, cũng gia nhập đoàn lữ hành tiến lên phía Bắc. Dọc đường, anh em ghé đón vợ chồng anh Hòa-Liên CVKer 69, dân “lô cồ”, thổ địa ở Seattle.

Nhóm cuối cùng, chúng tôi đã khởi hành rất sớm từ Seattle đi Vancouver gồm vợ chồng CVKer 71 Hùng Phong-Ngọc Diệp, dân Seattle, và vợ chồng tôi, CVKer 70 Sáu Cam-Chiêu Hòa. Chúng tôi từ vùng hoang mạc, đồng khô cỏ cháy Arizona, chó ăn đá, gà … không có muối mà ăn, đã bay đến trước đó một ngày, thăm Phong, thằng bạn thuở hàn vi ở Pleiku, rồi tranh thủ đi cỡi ngựa xem hoa, sau đó mới nhắm phía Bắc mà tiến. Dọc đường đi, chúng tôi còn phải ghé một tiền trạm mà Bok Tâm đã dặn dò, để mang theo một số hiện vật bán đấu giá cho buổi gây quỹ.

Tất cả chúng tôi đều tiến lên phía Bắc trực chỉ thành phố Surrey, Vancouver, giáo xứ Bernadette của Bok Thân trong cùng ngày thứ Sáu, kẻ trước người sau. Chiều hôm đó, phái đoàn xe Van đến trễ nhất vì bị “đậu phộng”, đi lạc, do cái phone của bác tài Đại-Đậu, đang ở xứ nóng lên xứ lạnh nên nó cứ chạy vòng vòng, không chịu chạy thẳng dùm cho bà con nhờ. Thêm nữa, trên xe lắm người, nhiều ý, trên đường thiên lý, hay bị cái bệnh dễ lây “TO PEE or not TO PEE”.

Anh em gặp nhau, tay bắt mặt mừng, vui hơn Tết. Năm nay kinh tế eo hẹp, lạm phát kinh hồn, bok Thân không còn lobster, nhưng bù lại, giáo dân của ngài chiêu đãi anh em một bữa thịnh soạn không thua nhà hàng bao nhiêu.



Ăn uống xong, ca trưởng Hòa 69 mời anh em “retouche” lại những giọng ca đang bị rỉ sét lâu năm, bị nhét dưới đáy rương, bây giờ móc ra, chà giấy nhám, xài lại nên âm thanh có hơi bị rè rè. Nghe hát xong, Bok Tâm phán “not bad, not bad”. Bok Tâm khen ca trưởng không tiếc lời, ngài phán rằng nhờ làm ca trưởng nên chàng zớt luôn cô ca viên xinh đẹp nhất của giáo xứ Phương Quý, bây giờ là bà xã của anh, chị Liên. Cả hai cho ra đời mấy cô con gái “zịu”, cô nào giống cha mẹ đều đẹp gái hết ráo. Có một cô đi tu, nên khi đến nhà thờ, người ta hay chào ông bà cố. CVKers nào, nhanh chân thì làm sui với anh chị Hòa-Liên, chậm chân cũng … vẫn còn cô Út.

Chia tay nhau cũng gần nửa đêm, hẹn ngày mai đi thăm một góc Vancouver, sẽ ghé cầu treo Lynn Canyon Park. Cây cầu này nhỏ hơn cầu treo Capilano nhưng “free” và phong cảnh còn hoang sơ, chưa bị thương mại hóa; trong khi cầu Capilano to hơn và “chém đẹp” hơn, mỗi người $71.95. Sau một ngày đi bộ rã rời đôi chân, phái đoàn lo về sớm, trở lại 2 căn nhà AirBNB, tắm rửa, sửa soạn, nhất là để các phu nhân còn make-up và sửa soạn xiêm áo cho kịp giờ.

Đêm đại tiệc gây quỹ Tình Thương 6 diễn ra như mọi năm, khách tham dự lên đến hơn 500 người, chật kín nhà hàng, cho biết sẽ thành công như mong đợi. Bok Thân bận rộn tối tăm mặt mày và sau khi khách về hết, ngài phải ở lại cùng hai thiện nguyện viên lo phần dọn dẹp đến quá nửa đêm mới về.

Ngày Chúa Nhật tiếp theo, sau khi Google địa điểm, bác tài Đại-Đậu đề nghị đi khám phá một góc khác của Vancouver là bến thuyền của bán đảo nhỏ ở khu trung tâm. Đi dạo bến cảng, nghe nhạc sống, ăn uống, rồi mướn thuyền đi trên sông. Khi ai nấy an vị trên xe Van xong, máy nổ rồi mà bác tài vẫn nhìn quanh quất trên dashboard xe như tìm kiếm gì đó, cặp thiên lý nhãn đảo qua lại nhiều lần, buông một tiếng thở dài não nuột hỏi tên co-pilot ngồi kế bên là Sáu Cam:

-          Hey, Sáu Cam có biết cái lỗ… đổ xăng nó nằm ở chỗ nào không?

-          Anh mần tài xế mấy bữa nay mà không biết hay sao?

-          Chưa hết xăng nên nỏ biết nó nằm chỗ mô!

Thế là Sáu Cam bốc cái phone lên, hỏi bác Google ngay lập tức. Ngồi sau lưng là hai anh em Hiền, Hùng 69, nghe lỏm câu chuyện, họ cũng Google nhanh không kém. Cả hai người đều có cùng một kết quả mà chẳng giúp được gì vì Google diễn tả rất là mơ hồ và rất là chung chung. Bè lũ “tứ nhân bang” vội xuống xe, chia nhau đi tam phương, tứ hướng, vòng quanh chiếc van, 4 cặp mắt như những tia Laser, soi rọi từng centimet trên thân xe, cố tìm ra chỗ đổ xăng nằm nơi nao. Kiểu này, con kiến cũng không lọt qua mắt chúng tôi. Quái lạ thật! Vẫn không thấy. Chúng tôi kéo cánh cửa xe về phía sau, vẫn không thấy; tôi ra đằng sau, đưa tay nhấc bảng số xe coi phía sau nó có núp phía sau không. Thất bại toàn tập.

Đang chán nản và tuyệt vọng vì xe gần hết xăng mà không biết phải đổ xăng ở chỗ nào trên xe. Nếu uống xăng, để xe chạy được, tôi cũng dám uống lắm chứ chẳng chơi. Chợt mấy lệnh bà ngồi trên xe chỉ vào một miếng sắt nhỏ ngay phía trong, đằng trước, chỗ tiếp giáp giữa cửa xe và khung thân xe, nơi mà nãy giờ chẳng ai để ý vì nó không giống tí ti ông cụ nào với cái nắp che bình xăng thường thấy. Đưa tay bật lên, bên dưới là nắp bình xăng. Giời ạ! Phi ní lô đia (hết nước nói).

Cha nội nào thiết kế chỗ đổ xăng của chiếc xe Ford này, xứng đáng lãnh giải “Designer of the Year”. Thật là dốt như quan huyện! Mất cả 15 phút mới kiếm ra; trong khi, đơn sơ như các bà, chẳng biết tí ti gì về xe cộ, thì họ lại tìm ra. Trong trường hợp này, tôi xin phép các đấng bậc sửa lại một câu trong Kinh Thánh Tân Ước: Hãy trở nên đơn sơ nhưcác bà (những trẻ nhỏ), thì các ngươi sẽ tìm được nắp bình xăng (nước trời). Matthew 19, 14.

Khi điều khiển một chiếc drone trên chiến trường, người phi công muốn bắn 1 trái hỏa tiễn, chỉ cần lật cái nắp nhựa trong veo có ghi chữ màu đỏ “FIRE”, nhấn cái nút đỏ nằm phía dưới là… xong phim. Vậy mà chiếc xe van khó ưa này lại làm 4 tên mặt mũi sáng sủa đến tối sủa như chúng tôi, phải điên cái đầu chỉ vì 1 cái lỗ… đổ xăng. Than ôi! Gã designer đáng nguyền rủa này chỉ cần in cái ký hiệu quốc tế “GASOLINE” hay hình cây xăng ngay bên trên thì người dốt như tôi cũng sẽ ngộ ra ngay cái mình muốn tìm. Đời nó thế các cụ ạ, bài học rút ra: muốn có được cái lỗ, các cụ phải ra công đào bới.

Mấy ngày đi chơi bên nhau, tham dự buổi gây quỹ, cùng dâng thánh lễ bỏ túi do Bok Tâm chủ tế, hàn huyên tâm sự, nhắc lại chuyện hồi xửa hồi xưa mà ai nấy đều bâng khuâng tiếc nuối. Ngồi bên nhau với cây đàn guitar, hát những bài tình ca nhẹ nhàng, không gian ấm cúng gợi lại biết bao kỷ niệm thân thương. Những mảnh vụn ký ức chợt ùa về đưa chúng tôi bập bềnh sống lại thuở học trò ngày xưa dưới mái trường tiểu chủng viện thừa sai Kontum.

Ngày chia tay cũng đến, chúng tôi cố níu kéo thêm khi trở lại Seattle, ghé nhà Phong, thưởng thức tài nấu nướng tuyệt ngon của Diệp buổi trưa hôm đó. Nói ngoài đề một chút, nếu Diệp chịu mở nhà hàng thì thằng bạn nối khố của tôi đã thành triệu phú từ lâu rồi, nhưng số nó chưa được vinh danh trong Forbes List vì nó nói cày mửa cả mật ở Boeing mà vẫn còn thiếu $1 nữa mới có trong Saving Account đủ 1 triệu. Đúng là số con rệp!

Chưa kịp tiêu hóa xong, chiều cùng ngày, phái đoàn lại lại ghé nhà ca trưởng Hòa-Liên với món ăn nhẹ là một nồi lẩu cá Sturgeon, một loại cá hiếm, thịt trắng phau, đậm đà, rất ngon, chỉ có sụn nhưng không có xương. Thời vua chúa ở Việt Nam còn không có cá này để mà ăn. Bây giờ phe ta cứ việc ăn “vô tư”.

Sau bữa ăn, tới giờ ma men Thần Tửu nhập, anh em bắt đầu “hát tiếng lạ”, với cây đàn thùng của Đại-Đậu, những bản tình ca nhạc Pháp du dương tỏa lan trong không gian ấm cúng căn nhà ca trưởng Hòa-Liên. Bok Tâm hôm nay như sống lại với những ngày “anh đàn, em hát” ngày xưa lúc mới tới Mỹ, khi ngài đang phân vân giữa hai chữ Tu và Hú; nhưng rồi khi cầm cây đàn, lại than những ngón tay sao cứng ngắt không chạy được trên phím như những “ngày xưa Hoàng Thị”. Chỉ biết than thở ôi, thời oanh liệt nay còn đâu!

Buổi tối cuối cùng chia tay với Bok Thân ở Vancouver, ngài tâm sự rằng không biết có sức tổ chức thêm lần nữa hay không. Cố kiếm thêm một ít cho người nghèo và các em mồ côi ở Kontum trước khi quy ẩn về vườn, mà chỉ sợ lực bất tòng tâm. Nhìn lại anh em, ai cũng đầu đã bạc, mỏi gối chồn chân đã nhiều. Tuy nhiên, vài anh em nhận xét Bok Thân còn “ngon cơm” lắm, chắc chắn sẽ làm được. On verra! Chia tay nhau ra về trong lưu luyến, ai cũng biết sẽ còn lần tới nữa vào tháng 9, năm 2026.

NGUYỄN VĂN TỚI CVKer 70.

Chú thích: Bok tiếng Thượng Bahnar là Father/linh mục.

CVKer: Người tu học ở Chủng Viện Kontum.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Văn hóa phương Tây, rắn vừa là biểu tượng trong lĩnh vực y khoa vừa là nguồn cảm hứng trong hội họa, kiến trúc và văn học. Văn hóa Hy Lạp bắt nguồn từ vị thần cổ đại Hermes, sứ giả của các vị thần. Thần Esculape được coi là ông tổ của ngành y dược. Biểu tượng của Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO (World Health Organization) con rắn quấn quanh cây gậy Esculape cầm. Cục Quân Y VNCH có thêm đôi cánh trên thanh kiếm.
Hồi năm sáu tuổi tôi vẫn hay theo chúng bạn ra chơi trước đình làng Thanh Thủy. Nơi đó có mấy cây sanh cổ thụ rất lớn luôn tỏa bóng râm mát mẻ cả đoạn đường bến chạy qua làng. Bên kia con đường bến là hồ Vọng Nguyệt, một cái hồ trông như vuông vức, rộng chừng nửa mẫu tây, dân địa phương vẫn quen gọi là hồ làng...
Phải chi khách đến thăm vườn hồng hơn trăm giống quý đủ màu sắc của ông Chu hằng ngày là khách mua hoa thì chắc thu nhập của gia đình ông đỡ hơn. Ông nghèo, nhưng cái máu nghệ sĩ của ông lại mạnh mẽ hơn chuyện tiền bạc, lại gặp bà vợ hết mực chiều chồng, nên cứ nghe đâu có giống hồng lạ là bằng mọi cách phải có cho bằng được. Năm ba ký gạo đắp đổi hằng ngày đã khó, mà có những giống người ta đổi cả tấn lúa ông cũng lắc đầu.
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon.
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.