Hôm nay,  

Cuộc Ngưng Chiến Không Có Thật

30/01/202511:09:00(Xem: 3019)
 
Minh họa Đinh Trường Chinh
Minh Họa Đinh Trường Trinh 

Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…”
Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…

Rồi các nhật báo Việt Nam ở những sạp báo dưới phố đã nhanh chóng phát hành,loan tin Việt Nam sắp có đình chiến, sắp trung lập đến nơi rồi. Mỹ đã ký Hiệp Định ngưng bắn với Bắc Việt.

Chị lúc đó, khi thì chạy lăng xăng theo mấy ký giả, lúc thì ngồi thừ người ở bàn giấy của mình nghiêng tai nghe hai chữ “Đình Chiến” nhìn mọi người chạy qua chạy lại trước mặt mình.

Ông Xếp bảo: Cô chạy sang bên Macv xem có gì mới thì gọi báo về, sang bên Chiến Tranh Chính Trị, Đài Phát Thanh Quân Đội xem họ có thêm Bản Tin mới nào nữa không? Ông nói xong thì lại quên luôn vì ông đang chúi đầu vào đọc những dòng telex mới.

Chị ngồi thừ trên bàn viết của mình, như không nghe thấy ông nói gì, mặc dù bàn của ông và của Chị đối diện nhau, trong cái buồng khoảng hơn 4 mét vuông.

Trong tai Chị, lùng bùng hai chữ “Hòa Bình” trong đầu Chị trôi lềnh bềnh hai chữ “Ngưng Bắn” Đầu chị như một cái ao nhỏ và mấy cái chữ này như mấy cánh hoa lục bình…bập bềnh…bập bềnh…trôi.

“Ngưng bắn”, thế có phải là Trung Lập, là Hòa Bình không? Hòa Bình là hết bắn nhau, là hết bom đạn, hết bị thương, hết tử trận…và những người lính được giải ngũ về với gia đình.

Hết bắn nhau thì những người lính sẽ được buông súng trở về với nhiệm sở cũ của mình hoặc kiếm công việc an bình hơn.

Người dân miền Nam sẽ không lo pháo kích, không lo bị đặt chất nổ ở những nơi công cộng, làng xã những vùng “xôi đậu” không lo ban ngày quốc gia, ban đêm cộng sản về. Hạnh phúc hơn nữa anh em, họ hàng chia ly từ 1954 có thể tìm về đoàn tụ với nhau… Ôi thật là bao điều kỳ diệu sẽ xẩy ra cho người dân cả hai miền Nam Bắc.


Bất giác Chị thấy sao lòng mình lại quặn thắt, nước mắt Chị bỗng ứa ra. Chị lấy khăn lau vội và Chị rời văn phòng, không báo cho ai biết, chị đi vào thang máy xuống phố.

Chị hòa vào đám đông dưới phố. Người ta đang tụ tập tùng nhóm nhỏ trước những sạp báo. Họ đang chúi đầu vào cùng một trang báo, tìm hai chữ “Đình Chiến” hai chữ “Ngưng Bắn”. Chị tránh đám đông đi bộ về hướng bến Bạch Đằng, con đường hơi dài nhưng với Chị bây giờ đường ngắn hay dài Chị cũng thấy như nhau, chị cần bỏ đám đông, bước đi, đi đâu cũng được, vì đầu óc Chị chỉ biết có một điều:

Dù “Ngưng Bắn”, dù “Hòa Bình” Anh cũng không bao giờ về nữa.
Em đã thấy xôn xao trong thành phố
Người ta đang nói hai chữ “Hòa Bình”
Em đã đọc trên từng trang nhật báo
Người ta viết rằng Việt Nam sẽ tàn lụi chiến tranh
Em đã nghe những bài hát hiền lành
Trên môi người ca sĩ
Những bài ca xanh mộng hòa bình
 
Ôi tất cả đều ôm lòng non dại
Từ cụ tám mươi tới đứa trẻ lên ba
Ôi giấc mơ đã xóa mất tuổi già
Để tóc bạc thấy mùa xuân trở lại
Ôi ngày mai nếu thanh bình em sẽ thấy
Những người lính mất tay mất chân
Cũng rủ nhau tìm ra Hà Nội
Những người mù
Những đứa bé mồ côi
Những khăn tang cũng tìm được tiếng cười
Sẽ chấm dứt bom rơi đạn nổ
 
Nhưng hòa Bình rồi
lòng em vẫn không vui
 
vì Anh đã bỏ đi trước khi ngưng tiếng súng.
vì Anh đã chết trước khi được nghe hai chữ “Hòa Bình” (tmt-1973)
 
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, tờ New York Time đã tường trình một tin mới nhất về một thỏa thuận ngưng chiến giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam tại Paris. Nhưng Cộng Sản không bao giờ nghiêm chỉnh trong những lời hứa, dù lời hứa được cam kết bằng bút mực. Súng đạn vẫn tiếp tục nổ tại miền Nam và người dân vô tội vẫn chết ngay trên ruộng đất của mình, làng mạc vẫn cháy, trẻ em vẫn mồ côi cha, người vợ trẻ vẫn phải chôn chồng. Cộng Sản là những người không bao giờ nói thật, và lừa dối ngay cả trên văn bản, chữ viết, cho nên Bản thỏa thuận dù có chữ ký hai bên không hề được thực thi đứng đắn.
 
Bài Thơ cho một “Hòa Bình” không có đích danh là những giọt lệ không bao giờ khô trong mắt chị.
 
Trần Mộng Tú 
Tháng 1-2025 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.