Hôm nay,  

Vườn Hồng, Một Buổi Trưa

1/31/202500:00:00(View: 3617)

vuon hong
Minh họa: Đinh Trường Chinh
 
Phải chi khách đến thăm vườn hồng hơn trăm giống quý đủ màu sắc của ông Chu hằng ngày là khách mua hoa thì chắc thu nhập của gia đình ông đỡ hơn. Ông nghèo, nhưng cái máu nghệ sĩ của ông lại mạnh mẽ hơn chuyện tiền bạc, lại gặp bà vợ hết mực chiều chồng, nên cứ nghe đâu có giống hồng lạ là bằng mọi cách phải có cho bằng được. Năm ba ký gạo đắp đổi hằng ngày đã khó, mà có những giống người ta đổi cả tấn lúa ông cũng lắc đầu.
 
Thật ra thì ông cũng có chút thu nhập từ những bạn đồng điệu, thỉnh thoảng họ cũng mua vài ba, năm bảy cành giống ông chiết sẵn vừa ra đủ rễ, hoặc lâu lắm cũng có vài người khách ngoài tỉnh họ mua với số nhiều, lại còn đặt cọc trước cho ông chiết sẵn vài chục giống mà họ chưa có, nhưng những con số đó không thấm tháp gì với con số ông bà đã bỏ ra, tuy vậy, cứ có khách đến thăm, dạo tới dạo lui, hoặc ngồi nhâm nhi nước trà nơi cái bàn đá ngoài vườn là ông thấy vui, dù đa phần khách đến để chiêm ngưỡng, nhận xét phê bình này nọ nhiều hơn khách mua.
 
Một người khách nữ bước vô nhà, định gật đầu chào nhưng ông kịp nhận ra, rất nhanh, ông dẫn chị ra vườn hoa, không kịp mừng, họ vừa loanh quanh vườn, vửa vội vã khơi thông dòng nước bị bị nghẽn mạch lâu ngày, sau câu hỏi nhỏ, của ông Chu, vể hồi nào.
 
-Biết anh vẫn khỏe là em vui rồi, em không muốn hỏi anh sống thế nào, vì ít nhiều em cũng đã biết về anh. Ngày đó anh không lên tàu kịp, và em mất anh, bao năm nay, mình nào nói với nhau được gì.
 
Ngừng một chút, chị thở dài, nói nhanh như sợ không còn được nói:
-Nghe anh có gia đình không biết làm sao viết thư gửi quà cho anh, em về đây cũng chính là muốn gặp anh một lần, Em ở khách sạn, anh có muốn gặp em không?
 
Ông cúi đầu, không nhìn thẳng chị như có gì đó không ổn:
-Thường thì anh tự nhốt mình quen rồi, Từ ở tù về, anh tự cách biệt với xã hội bên ngoài, anh không bạn bè, quán xá gì. Đi đâu ra khỏi cửa thì lúc nào bà xã cũng ngồi sau cái ba-ga xe đạp. Anh mà đi một mình được là bất thường lắm.
 
Chị thở dài nhè nhẹ:
-Sao anh hành hạ mình chi vậy, ai cũng phải sống mà.
 
Ông cũng thở dài, cái thở dài như được có cái bóng mát đặt xuống một gánh nặng mà như lâu lắm ông chưa được có ai để ông gửi gắm:
-Em không biết chúng nó khủng bố gia đình anh và anh thế nào đâu.
-Điều đó thì từ khi còn ở đây em đã biết rồi, em nghĩ có khi lâu rồi chúng có cởi mở hơn…
-Cũng nới phần nào, nhưng cũng tùy đối tượng, anh không nằm trong số được thở. Nó chưa giết anh đã là may lắm.
 
Họ tiếp tục dợm bước qua từng chậu hồng, cứ như những lần ông chuyện vãn, giải thích với khách. Họ cứ lặng lẽ những câu chuyện riêng tư, không quên ngó chừng từ trong nhà người vợ có bất chợt bước ra không, dù ông biết chắc vợ ông đang bận chăm chút đứa con mới sinh hơn tháng.
-Chị có có nghe tên em không?
-Em muốn có hay không?
-Em muốn cả thế giới biết là…chúng ta…
Không khí giữa họ trở nên vui vẻ, ông nhìn chị cưới:
-Để em sống một mình?
-?
-Thì anh chết chứ sao.
-Thử đi, không chết đâu. Mình có làm gì nên tội đâu. Vậy chứ anh sẽ nói em là gì?
-Khách mua kiểng.
-Em nói!
-Anh thách em.
-Em có mua cho anh vài bộ bô quần áo mặc Tết. Em đem về một thùng quà để dưới khách sạn…
Không để chị dứt lời, ông vội vã từ chối:
-Không dám nhận đâu.
-Tại sao?
-Anh biết nói sao?
-Thì… nói bạn nào đó cho.
-Bạn nào trong cuộc đời anh mà bả không biết.
-Ưm…anh cất ít tiền tiêu… Mua giùm em những gì anh cần
-Không, anh không thể.
-Chúng ta không có nhiều thời gian mà, em năn nỉ anh. Đừng làm em buồn.
-Thôi, anh hiểu em là đủ rồi.
-Làm ơn. Đủ là sao?
Ông giải thích:
-Là… không có em, lâu nay anh cũng lây lất sống được mà. Anh với em vậy cũng đủ để nhớ nhau, đủ đẹp rồi. Như những bông hồng kia, đã có lúc hàm tiếu, rồi mãn khai, rồi cũng đã phải úa tàn. Không phải bao năm qua là đã tàn lụi rồi sao?
Chị lại thờ dài, cố gắng lắm để không bật ra tiếng khóc, nhưng không kịp cố gắng để ngăn hai dòng nước mắt ứa vội:
-Em hiểu rồi. Anh có được người vợ tốt, thương yêu lo lắng cho anh là em mừng rồi, nhất là tù tội về chỉ còn là phó thường dân, cá nằm trên thớt. Hay… em có thể mời anh chị dùng với em một bữa trưa nhé?
-Thôi em, bà xã bận bịu với cháu nhỏ lắm, mấy bữa nay con bé bị bệnh, lại nãy giờ bả cũng đang lo cơm trưa, anh không mời em ở lại dùng cơm đã là một thiều sót rồi.
-Gì cũng không, em tức anh quá. Chị thật đảm đang, cho em cám ơn chị, anh tin em thật lòng không?
Chị ngừng nói vì bất chợt thấy ông nhìn thẳng mặt chị, như xác định câu nói của chị có vẻ gì mỉa mai không, ông yên tâm khi thấy chị nói thật, ông cười:
-Ở đâu ra như bài học thuộc lòng vậy?
-Thật mà, nghe anh nói em hiểu là chị yêu anh lắm. Anh cho em tính thế này, anh nhờ ba gác chở xuống khách sạn ba bốn chục chậu hồng đủ thứ cho em, em gửi tiền trước cho anh ở đây. Em năn nỉ anh, gần tết rồi, em biết ai cũng khó khăn, và em cũng khó khăn lắm mới về gặp được anh đây, chưa chắc gì còn lần sau, coi như một chút kỷ niệm để nhớ ngày xưa.
Bị dồn vào thế chẳng đặng đừng, thấy chị hợp lý hóa chuyện tiền bạc ông có phần xiêu lòng, ông im lặng như đồng ý, tuy nhiên vẫn muốn làm khó chị:
-Nhưng mà anh không muốn những giống quý của anh lưu lạc vô tay nhũng người không biết chơi.
Thấy ông không còn thẳng thừng từ chối, chị vui ra mặt, trả lời thật nhanh:
-Em có chơi đâu, em không cần giống má gì hết, Anh cứ cho em ba cái thông thường là được.
Chị thòng thêm:
-Anh yên tâm, em làm ra nhiều tiền lắm.
Ông thắc mắc:
-Rồi em làm gì với cái đống hổ lốn ấy?
Chị đùa:
-Đập cho bõ tức.
 
Đặng Kim Côn 
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.