Hôm nay,  

Đọc và Cảm truyện ngắn Khánh Trường

14/02/202500:00:00(Xem: 3764)
 
Ngôn-Ngữ-Khánh-Trường
 
LTS: Nhân tuần lễ kỷ niệm 49 ngày Khánh Trường rời cuộc thế gian, tờ Ngôn Ngữ số đặc biệt tháng Hai dành trọn số báo tưởng niệm người họa sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo tài hoa Khánh Trường, do nhà thơ Luân Hoán và bạn hữu nhóm Ngôn Ngữ ưu ái thực hiện.   Mời đọc bài viết của Trần Yên Hòa trích nhà phê bình văn học Thụy Khuê như một nén nhang tưởng nhớ người họa sĩ/nhà văn tài hoa.
 
***
 
Trước đây tôi ít đọc truyện ngắn của Khánh Trường viết, bởi vì tôi nghĩ -  Khi các họa sĩ, nhạc sĩ... đã thành danh, thường hay muốn sáng tác kiêm nhiệm thêm vài môn nghệ thuật nữa. Như Trịnh Công Sơn thích chuyển sang hội hoạ, như Du Tử Lê cũng bước vào hội họa... Tôi lại nghĩ, đó cũng chỉ là một món trang sức mới cho đủ "cầm kỳ thi họa" của một nghệ sĩ, nên tôi không chú ý đến nhiều.

Nói đến Khánh Trường, tôi muốn nói đến hội họa của Khánh Trường nhiều hơn. Tôi, tuy rất dở về hội họa, nhưng qua cảm nhận tranh - khi đứng trước một số tranh của Khánh Trường, tôi thấy mình như đang lênh đênh trên một bờ biển rộng, trên một dòng sông xanh. Hồn mình như được chơi vơi bên này bờ... bỉ ngạn...

Cho đến ngày Khánh Trường mất, đọc những bài thương tiếc của các nhà văn viết về Khánh Trường, tôi đọc được bài của Thụy Khuê viết, khiến tôi khựng lại. Tại sao thấy Khánh Trường có cái nhìn về chiến tranh, về lính, giống tôi quá vây. Đó là một nỗi đau thương không lối thoát, khi nhìn chiến tranh bằng cái thật, cái bi quan, bất lực, bởi vì mình chỉ là một người lính quèn, một người sĩ quan không binh lính dưới quyền, không chỉ huy được ai như tôi, như Khánh Trường, hay hàng chục, hàng trăm bạn bè khác cùng hoàn cảnh tương tự.

Thụy Khuê viết:

“Những truyện ngắn của Khánh Trường, được in trong ba tập: Có Yêu Em Không (1990), Chỗ Tiếp Giáp Với Cánh Đồng (1991), Chung Cuộc (1997).
....
Khánh Trường là trường hợp phản kháng thường trực trong văn cũng như trong đời. Văn Khánh Trường là thứ văn chống lại văn chương, chống lại sự thơ mộng hoá của tất cả những loại văn bản, bài hát, bài thơ ve vãn chiến tranh, để tìm đến sự thực trần trụi nhất:

«Nửa đêm, một trái pháo vu vơ rơi ngay hầm chỉ huy. Kh. chia ba với thằng tà lọt và tên lính truyền tin quả đạn. Khi đào hầm lên, phải cố gắng lắm bọn lính mới gom được một đống thịt xương trộn lẫn cùng đất cát. Phần Kh., tôi chỉ nhận ra hắn nhờ chiếc thẻ bài và hai cái hoa mai trên cổ áo. Cái chết đúng như lời một bài hát, chết thật tình cờ... Chết thật tình cờ! Phải, nhưng nhất định không nằm chết như mơ! Các ngài nghệ sĩ đôi khi lãng mạn một cách tàn nhẫn. Các ngài chẳng biết mẹ gì trận địa, thậm chí có ngài chưa từng thấy mặt ngang mũi dọc cây M16 nó ra làm sao? Trái M26 nó tròn méo thế nào so với trái MK3? Nên trí tưởng tượng của các ngài đôi khi làm bọn lính tráng chúng tôi những muốn văng tục. Chết như mơ! Đụ mẹ, bảy năm trong một đơn vị tác chiến thực thụ, tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái chết như mơ! Chỉ có chết tan xương nát thịt, như Kh.,. chết cụt đầu cụt tay, chết cháy đen giống cây than hầm, chết banh ngực lòi phèo lòi phổi, chết phơi bụng đổ ruột cứt dái lòng thòng... như bao nhiêu thằng lính lớn lính nhỏ. Chết như mơ. Đụ mẹ, nói phét cũng vừa thôi.»[9]

Giữa mùi tử khí, giữa những xú uế, dòi bọ uất lên nơi những xác chết đã thối rữa trương sình, phả ra một tình bạn dai dẳng không dứt, một tình bạn chết người, một thứ tình bạn đỉa đói, nó theo con người vào cõi chết và cứ sống dai, sống dài sau cái chết. Người ta thường thấy những đối thoại giữa lính sống và lính chết, những cãi lộn, đanh đá cá cầy giữa gái điếm sống với những gã tình nhân lính đã chết toi chết tiệt từ kiếp nảo kiếp nào.

Khánh Trường là kẻ ngược dòng. Kẻ đi lột những mặt nạ. Khi người ta khóc thương quê hương, nhớ nhung lãng mạn, ca tụng tình yêu, ca tụng cái chết sĩ khí anh hùng thì Khánh Trường lăng nhục thứ văn chương điếm đàng, lừa thầy, gạt bạn. Khi người ta ca tụng những cao cả của sự vượt biên, vượt biển tìm tự do, như lẽ sống của con người, thì Khánh Trường nói hụych toẹt cái lý do vượt biên kỳ cục của những kẻ giống mình: "Tôi ra đi chẳng phải vì căm thù chế độ, vì bị kềm kẹp khủng bố, mà chỉ vì bị quyến rũ bởi những tấm hình màu, những thùng quà đầy ắp, những tape nhạc, những băng vidéo, những xếp đô la dày cộm của bà con bạn bè bên Mỹ gửi về."

Khánh Trường đi vào văn chương như một lính dù cảm tử, không sợ súng. Chính vì vậy mà anh viết những dòng chữ không tô hồng, không bọc điều, bọc đường. Chúng phả ra những sự thực quái đản, chúng gột sạch những son phấn hoá trang, chúng lột trần những áo quần loè loẹt, mà người ta đã điểm trang, trước khi tung ra vũ trường dư luận.

Khánh Trường vừa viết vừa chửi thề văn chương chữ nghĩa, vừa viết vừa nhổ bọt vào đạo đức luân lý. Vừa viết vừa hiếp dâm những thứ tình lãng mạn lý tưởng.

Người ta làm văn nghệ với những vai vế, chức sắc; khinh binh Khánh Trường, không bằng cấp, không quá khứ văn chương, nhẩy vào văn đàn như một tên du đãng cướp diễn đàn của các vị đại ca.


Người ta làm văn chương với những sứ mệnh, những nhiệm vụ cao cả, Khánh Trường kẻ phi số mệnh, phi đường lối, khơi khơi đi vào văn chương như một gã say rượu, loạng quạng chân nam đá chân xiêu, bạ mồm bạ miệng, điếc không sợ súng.

Nhưng sáng tác nào là không phát xuất từ những điếc đui dò dẫm?

Trách nhiệm tờ Hợp Lưu, đã là «bạt mạng» lắm rồi, ngòi bút của Khánh Trường lại ngược dòng, chiếu đèn pha vào một cộng đồng văn chương có những nét bảo thủ, thích rập theo những khuôn mẫu có sẵn. Ở thời điểm mà những người làm văn ở hải ngoại còn đang lâm ly khóc thương cho một "quá khứ vàng son", cho những "lý tưởng tự do" chưa đạt đích, những "buổi mai về xây dựng lại màu cờ"... thì Khánh Trường lù lù xuất hiện với cái tôi lính tráng, cái tôi rượu chè, cái tôi du đãng, mở miệng là chửi thề, «hùng» thì ít mà «hèn» thì nhiều.

Để rồi, nhiều năm sau trên đất Mỹ, trên "thiên đường mới", anh nhận thấy "sự bơ vơ cùng cực của mình, trên một xứ sở sống gần 15 năm, sao vẫn như kẻ lạ."

Thế giới của khinh binh Khánh Trường là thế giới của những kẻ ngoại đạo, tà đạo, ngược nước, ngạo nghễ, nghênh ngang, du côn, sống còm, chết bỏ, đối chất với một thế giới chính thống, khép kín trong những công thức cảm tình, những nhớ nhung vờ vĩnh, những thiên đường giả hiệu của những kẻ không tuần chay nào là không có nước mắt.

Tàn nhẫn nhưng thành thật đến độ phũ phàng, những nhân vật của Khánh Trường, không có tên. Chúng thường mang những danh xưng như: con đĩ, hắn, thằng cha, người đàn bà, thằng nhỏ, con nhỏ... Nếu có tôi thì cũng là cái tôi tàn mạt, vừa dâm, vừa ác, vừa hèn.

Những nhân vật của Khánh Trường coi thường tội lỗi, xỉ nhục đạo đức, một thái độ giới hạn giữa có luân và vô luân.

Thái độ đó bởi đâu? Phát sinh từ cái gì? Nếu không phải là từ những xác chết? Từ những trái phá phàng phũ ngoan cố chớp mắt đã xé nát những thằng bạn du thủ du thực đang ăn tục nói phét với nhau, bỗng lăn đùng ra, đứa mất đầu, đứa mất chân, đứa lòi ruột, bên cạnh những đống thịt bầy nhầy vụn nát của những thằng chết bằm.

Những truyện ngắn hay nhất của Khánh Trường đều xoay quanh "cái đó". Và từ "cái đó" nẩy sinh thái độ ngạo mạn, thái độ dửng dưng, đưa đến bạo lực, bạo tình.

Ở Khánh Trường là những thái quá. Là hiện tượng chiến tranh nổ chậm trên thể xác và tâm linh sau ngày đình chiến."

***

Đúng là Khánh Trường sống trong một đơn vị quân đội sừng sỏ nhất của cái gọi là Quân Lực VNCH ấy là nhảy dù, thì những tác phẩm của Nguyên Vũ, của Trần Hoài Thư cũng nói lên những nổi đau không rời ấy, đó là người lính tác chiến. Người lính đi ra với một bản án tử hình bên mình là cái chết tình cờ. Cái chết như Khanh Trường tả là:

"Chỉ có chết tan xương nát thịt, như Kh. chết cụt đầu cụt tay, chết cháy đen giống cây than hầm, chết banh ngực lòi phèo lòi phổi, chết phơi bụng đổ ruột cứt dái lòng thòng... như bao nhiêu thằng lính lớn lính nhỏ. Chết như mơ. Đụ mẹ, nói phét cũng vừa thôi.»

Sau chiến tranh, qua Mỹ, một số ít nhà văn như Nguyên Vũ, Trần Hoài Thư, Thế Uyên, Khánh Trường, Cao Xuân Huy, Hoàng Khởi Phong, Trần Yên Hòa muốn viết lại, vẽ lại những hoàn cảnh đó, con người đó... để thấy rằng, trong cuộc chiến đấu cũ phe ta thua trận là do đâu? Để thấy rằng người lính trong trận chiến vừa qua bi thảm, đau thương đến độ nào, chứ không đẹp như những bản nhạc tình hư cấu hóa những đóm mắt hỏa châu là hoa đăng ngày cưới, như mắt em sáng ngời theo anh đi ngàn lối. Tổ cha nó chớ! Đi ngàn lối, đi vào cái chết bất ngờ chết cụt đầu cụt tay, chết cháy đen giống cây than hầm, chết banh ngực lòi phèo lòi phổi, chết phơi bụng đổ ruột cứt dái lòng thòng... như bao nhiêu thằng lính lớn lính nhỏ... thì theo một lý tưởng gì đây?

Trong lúc đó theo tôi biết, những sĩ quan chỉ huy từ cấp đại đội trưởng trở lên, có lính trong tay, đã ăn của lính từ ration C của Mỹ đến lính ma lính kiển, lính đào ngũ. Các sĩ quan tiếp liệu ban 4, là tay chân tài lọt của các sĩ quan chỉ huy đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tư lệnh sư đoàn làm ăn chia chát với họ...

Nếu phía bên kia cộng sản có câu: "đánh còn cái lai quần cũng đánh", thì bên quân đội cộng hòa, sĩ quan ăn của lính biết bao nhiêu, ăn đến lai quần cũng ăn. Rồi để cho lính đói khổ, cuối cùng dẫn tới những cái chết khốn nạn như Khánh Trường đã diễn tả trên.

Chuyện đã qua hơn năm mươi rồi, một Nguyên Vũ, một Trần Hoài Thư, một Khánh Trường, một Cao Xuân Huy cũng đã trở về với đất... không làm được gì, chỉ ngậm ngùi thương cảm cho những người lính trong văn thơ họ.

Qua xứ Mỹ này, chỉ thấy vinh danh lính trong những cuộc diễn hành, những người lính can trường là những người lính nào, là những sĩ quan nào... không thấy ai là đại diện cho những người lính trên... chỉ những sĩ quan ngồi ở văn phòng, ở hậu cứ, ở các ngành nghề như truyền tin, quân vận, quân cảnh... lên truyền hình, đi diễn hành và vinh danh mà thôi.

Thế thôi và thế thôi!
 
Trần Yên Hòa 
 

Ý kiến bạn đọc
17/02/202521:55:17
Khách
Hay quá anh Hòa.
Cảm ơn anh
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.