Hôm nay,  

Đức Hạnh Cao Quý

3/21/202500:00:00(View: 2347)

minh-họa-Đinh-Trường-Chinh
Minh họa của họa sĩ Đinh Trường Chinh
 
Xin tri ơn thầy Thích Tâm Đức
Xin tri ơn tác giả Nguyễn Tường Bách qua tác phẩm Mùi Hương Trầm
Chúc Thanh 
 
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt.
 
Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật.
 
Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn.
 
Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
 
Người dân vùng quê Tây Tạng nổi tiếng là có tín tâm, có lòng tin sâu xa vào phật pháp mà không cần phải có trình độ hiểu biết cao siêu.
 
Ở miền Kongpo có rất nhjiều tu viện, tu viện Jokhang ở Lhasa là nổi tiếng đẹp và linh thiêng. Nơi đây thờ tượng phật Thích Ca là Sa Môn Cồ Đàm thời niên thiếu, ngài được người Tây Tạng tôn kính và gọi là một Rinpoche, Jowo Rinpoche, là vị đức hạnh cao quý.
 
Tượng phật này nguyên thủy ở Trung Hoa, xưa được một bà công chúa Trung Hoa lấy chồng là vua Tây Tạng, bà thỉnh tượng mang về Jokhang để thờ, bái lạy.
 
Người dân tương truyền rằng tượng phật Jowo Rinpoche là linh thiêng nhứt và đền Jokhang là ngôi đền đẹp nất ở Tây Tạng. Ai ai quanh vùng cũng nghe tiếng cũng mong muốn được đến viếng đền và đảnh lễ ngài Jowo Rinpoche, mệnh danh là phật đức hạnh cao quý.
 
Truyện kể rằng, có một thanh niên quê mùa là Ben (Benoit) ở miệt quê Kongpo cách xa đền Jokhang rất xa, từ lâu anh làm lụng vất vả và dành dụm tiền bạc và chỉ mơ ước trong đời được một lần đến viếng Sa Môn Cồ Đàm được Tây Tạng hóa tại ngôi đền đẹp nhất vùng Lhasa ấy.
Rồi một ngày nọ, sau những chuyến đi vất vả, anh cũng đến được kinh đô Lhasa. Anh đi thăm các tu viện nơi đào tạo các tăng sĩ, rồi vào đảnh lễ đức phật Jowo Rinpoche.
 
Bức tượng cao to như người thiệt, trên kia, ngài toát ra những gì tôn quý, tuy rất thầm lặng nhưng làm cho Ben xúc động đến rùng mình sung sướng. Anh toát mồ hôi như được tắm mát và rưng rưng nước mắt hạnh phúc, ngài đó, ngài trước mặt Ben đó.
 
Anh muốn quỳ gối đảnh lễ bậc tôn kính, nhưng mấy lần, lần nào anh cũng bị vướng vì đôi bottes dài quá làm anh không quỳ gối được, thêm cái mũ vải cũ kỹ trên đầu, cứ mỗi lần anh nghiêng mình, chưa kịp cúi xuống lạy, là cái mũ chết tiệt đã rơi nhẹ nhàng xuống đất. Anh chàng Ben quê mùa vụng về, ngặt là anh có nhiều tín tâm hơn là thiên về các phép lịch sự khéo léo của người ở kinh đô.
 
Sau cùng Ben bèn cởi bỏ đôi ủng và cái mũ vãi, anh đập rơi bụi rồi hồn nhiên đặt hết chúng lên lòng bức tượng và thầm nói: «thưa ngài Rinpoche ngài giữ dùm con mấy cái thứ lỉnh kỉnh đặng con tĩnh tâm chiêm bái và đảnh lễ ngài.»
 
Lạy phật xong anh đi vòng quanh bệ thờ và nhìn ngắm phật từ bốn phía, nhìn ngắm các loại đèn sáng rỡ. Anh cũng xin bánh cúng ăn cho đỡ đói lòng… anh đói và xung quanh đây đâu có gì để mua ăn đâu. Sau cùng anh hồn nhiên mời đón phật về Kongpo, là quê hương anh bất cứ ngày giờ nào thuận tiện với ngài.
 
Anh làm nghề mổ heo và anh vui sướng hứa khi đó phật về, anh sẽ làm một con heo ngon nhất, quay thơm vàng để đãi ngài. Anh khẩn khoản mời và rất hồn nhiên khấn vái, sau cùng anh tin là ngài Jowo Rinpoche đã nhận lời, dù rằng anh không hề biết là phật không ưa sát sinh mỗi ngày như anh.
 
Ngay lúc anh đang hí hửng nói về tài quay heo rộn ràng của anh thì cánh cửa đền bật mở, vị sư già thủ từ bước vô và giựt mình chợt thấy đôi giầy dính bùn và cái mũ vải đầy bụi… nằm thu lu trong lòng đức phật!
 
Ngài định đưa tay tính chụp chúng mang ra chỗ khác. Bỗng có một tiếng nói từ xa xăm rót vô tai ngài, rất rõ ràng: «ngừng tay, đừng làm di động chúng, những thứ này là đồ dùng cần thiết của đứa học trò ta từ xa tới.»
 
Vị sư già thu tay lại, xin lỗi và nhẹ nhàng bước ra ngoài sau khi đã khép kín cửa điện, để cho một mình Ben tự do bái lạy, kể lể và mời mọc.
 
Rồi sau đó, Ben cũng phải lạy từ giã và về quê làm việc. Khi anh về đến quê Kongpo, anh đã nghe người dân làng đồn đại là anh đã đi thăm viếng đức phật ở thủ đô Lhasa, được thưa chuyện với ngài là đức hạnh cao quý và mời được ngài về quê anh.
 
Người ta kể rằng ngài đức hạnh cao quý về Kongpo thiệt, theo lời mời của Ben, vì Ben đã thấy ngài hiện ra trước mắt anh, lung linh trong một dòng suối mát trong vùng quê. Và nhiều người cũng thấy ngài như anh.
 
Mãi mãi về sau này, người dân miền Kongpo vẫn đi quanh hồ nước có in dấu tích ngài Jowo Rinpoche đang mỉm cười và họ bái lạy tượng phật đức hạnh cao quý bằng cách nằm và cúi đầu sát mặt đất.
 
Thủ đô Lhasa và đền Kongpo tuy có xa miền quê Kongpo, nhưng người dân Tây Tạng Kongpo luôn sống với niềm tin là vị phật đức hạnh cao quý luôn ở gần họ. Bên cạnh họ.
 
Với tính cách đối xử vô phân biệt, không chọn lọc, đức phật đã làm lan tỏa lòng từ bi vô biên. Ngài rải tâm từ cùng khắp nơi nơi chủ ý tạo ra sự bình đẳng giữa mọi chúng sanh, giữa muôn loài trong vô cùng khắp nẻo ta bà thế giới.
 
A Di Đà Phật
Chúc Thanh

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.
Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người.Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ.
Trời Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services -Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở thanh bình.
Thôi thì khỏi nói, mọi người tay bắt mặt mừng, ai ai cũng vui như hội. Bà Tám đầu hẻm oang oang: - Thằng nhỏ coi bộ phổng phao ghê vậy ta, hồi còn ở đây gầy nhom, da bánh mật. Nó qua bển một thời gian giờ thay da đổi thịt quá, nếu đi ngoài đường chắc tui nhận hổng ra. Cả nhà quây quần tíu tít, bia bọt khui lốp bốp. Tuị bạn ngày xưa bá vai kề cổ giờ cũng ra ông nọ bà kia hết trơn. Chỉ có mỗi thằng An là lẹt đẹt làm anh công chức quèn thôi!
Kính Anh Chị Lê Thanh Tôi nhận được thư anh chị cách đây mươi ngày. Tôi định viết thư trả lời anh chị hay liền, và cám ơn anh chị đã nhiệt tình đỡ đầu hai quyển sách đầu tay của tôi mà tôi tự xuất bản. Nhưng không hiểu tại sao tôi mãi chần chờ. Đêm nay, tự dưng thức giấc, đọc lại thư anh viết, lòng cảm thấy bồn chồn. Lời thư anh mộc mạc, ngắn gọn, chứa chan tình cảm và nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ của anh, của người tuổi đã ngoài 70. Anh đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử của đất nước.
Như mọi buổi sáng, tôi vừa dùng điểm tâm vừa xem tin tức trên Internet. Sau đó, tôi vào Inbox để xem emails của bạn hữu. Khi thấy youtube tình khúc Hai Vì Sao Lạc – do ông Trần Nắng Phụng chuyển – cũng là lúc tôi chợt nhớ trái avocado để quên nơi bếp. Tôi “bấm” vào youtube rồi rời phòng computer, đi xuống lầu, với dụng ý khi tôi trở lên thì phần nhạc dạo đầu sẽ chấm dút.
Tháng ba, dường như mùa đông chỉ mới bắt đầu sau một tháng thời tiết ấm áp. Nấc đo màu đỏ của hàn thử biểu nằm trên dương độ và có khi vượt qua khỏi con số mười. Mọi người hân hoan cho rằng Paris năm nay không có mùa đông. Nhưng những cơn mưa ướt át, những luồng gió lạnh lẽo từ một cơn bão nào đó đã ào ạt thổi về trên phố từ mấy ngày nay. Con đường trước nhà lúc nào cũng vắng hay tôi chỉ nhìn thấy nó mỗi khi không còn ai. Thói quen trước khi vào giường ngủ và thức dậy khi đêm chuẩn bị tạ từ. Đèn vàng và sương mù, những ngôi nhà, cây cành đổ bóng ngoài khung cửa là nơi của quá khứ tôi, nơi hồi tưởng, dù vui dù buồn. Nhớ lại trong đêm nay… cả trăm điều muốn khóc1, một lời hát lấy từ một bài thơ của một nhà thơ quá cố mà tôi rất thích và tôi nghĩ đâu phải riêng tôi mới có cả trăm điều muốn khóc. Của chúng ta, bao người ly hương, làm gì lại chẳng có những đêm nhớ lại với trăm điều.
Thứ hai 6 tháng 4 South Carolina tiểu bang cuối cùng của các tiểu bang nằm dọc theo phía Đông của sông Mississippi (giòng sông dài thứ nhì của Bắc Mỹ) ban hành lệnh "Shelter in place". Cùng lúc, Indiana kéo dài "lệnh cấm túc" thêm 14 ngày nữa trên toàn tiểu bang.
Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hãy còn nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền hình. Đã mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ còn nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người bình thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà còn là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua dòng lịch sử nghiệt ngã của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Tiếng giày cao gót lụp cụp tiếp theo sự xuất hiện của một cô gái làm Vinh ngơ ngẩn đến lặng người. Trời ơi! Sao trên đời lại có người đẹp thế này! Nàng mặc nguyên cái áo dài màu xanh da trời đồng phục của tiếp viên hàng không Air VietNam với huy hiệu rồng vàng nổi bật trên cổ áo ôm lấy một bờ ngực vun đầy và vòng eo chết người. Gương mặt trái soan với đôi má hây hây điểm trên làn da trắng mịn màng, bờ môi mộng đỏ hình trái tim, cộng thêm đôi mắt bồ câu đen long lanh với viền mi cong vút dài rậm(thiệt đúng là chí lớn trong thiên hạ không đong đầy đôi mắt mỹ nhân). Tất cả như muốn nhốt cả hồn Vinh trong ngây dại chìm đắm.
Tiếng niệm chú rì rầm trầm hùng vang rền cả đại điện, bóng các tăng sĩ trong màu áo huyết dụ lắc lư, tay lần tràng hạt trong ánh đèn bơ lung lay trông thành kính vô cùng. Toàn bộ mọi người như nhập thần vào câu chú, thân người ngồi đó mà thần thức như ở cung trời nào chứ chẳng phải trên mặt đất này. Khói trầm phảng phất bay lên, pho tượng Phật trên toà tay bắt ấn kiết tường, mắt mở to như nhìn thấu những tấn tuồng của trò đời, thông suốt những nỗi đau của chúng sanh, biết tường tận tâm can của của mỗi người.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.