Hôm nay,  

Cây Trứng Cá Trong Trại “cải Tạo”

4/14/202518:05:00(View: 2840)
ann phong
Tranh Ann Phong

 

Chuyến đi thăm chồng “cải tạo” đầu tiên, bà chị Cả cho tôi đi theo, dù tôi lúc ấy mới 9-10 tuổi.

 

Lý do chính, là vì trại ở Thành Ông Năm, chỉ cần một chuyến xe đò từ nhà tôi ở Hạnh Thông Tây, đến chợ Hóc Môn rồi lấy một chuyến xe lam đến thẳng nơi trại “cải tạo”. Hơn nữa, lúc ấy má tôi mới mất, ba vẫn còn bị giam giữ “cải tạo”, chị mới sanh đứa con thứ hai được vài tháng, nên chỉ mang theo thằng con lớn 5 tuổi đi thăm bố, thêm ông anh Tư đi theo để phụ hợ chị xách đồ đạc, còn tôi thì có nhiệm vụ đi… chơi chung thằng cháu 5 tuổi cho nó đỡ quấy má nó trên đường đi thăm nuôi.

 

Chiếc xe lam thả chúng tôi xuống ngay gần cổng Thành Ông Năm, nơi đây đã có nhiều người đến trước, và lai rai đến sau đó, cũng là thân nhân của “tù cải tạo”. Dù không quen biết, nhưng cùng hoàn cảnh, nên mọi người mau chóng trở nên thân thiện, hỏi han nhau đủ điều. Chị tôi nhận ra người đồng hương Gò Vấp, chỉ cách nhau con đường song song, nhà tôi trên đường Phan Văn Trị, còn nhà cô ấy bên đường Quang Trung, ngay cư xá sĩ quan Phan Chu Trinh (cũ). Cô ấy tên Thảo, dắt theo hai đứa con trai, đứa lớn tên Tuấn, bằng tuổi tôi, đứa nhỏ là Tú, cỡ 3-4 tuổi, được bà ngoại ẵm. Hai gia đình bỗng gần nhau hơn, cho nhau địa chỉ để sau này dễ dàng liên lạc, thăm nhau khi cần thiết.

 

Đến giữa trưa, một quản giáo bước ra, cầm tờ danh sách, điểm danh đầy đủ thân nhân có mặt, chúng tôi được đi vào cổng trại, rẽ phải ngay khu nhà chờ. Người lớn nôn nao hồi hộp, còn lũ trẻ chúng tôi bắt đầu quanh quẩn nơi khu vực chờ đợi, có cây trứng cá thiệt lớn, xum xuê lá và những chùm trái nhỏ xíu đỏ mọng. Một số người lớn tuổi tìm chỗ ngồi nơi vài chiếc ghế dài được kê rải rác xung quanh.

 

Giây phút trùng phùng cũng đến, một đoàn tù nhân “cải tạo” rảo bước từ xa, các bà các cô nhốn nháo ngóng tìm người thân, nhưng chẳng ai nhận ra ai vì tất cả họ đều mặc áo quần xập xệ, màu xám tối đen, những mái tóc húi cua, những khuôn mặt hốc hác đen đúa . Có một số phụ nữ bật khóc, nhưng nhìn thấy hai quản giáo đứng kế bên liền lau vội những giọt nước mắt vừa trào ra khoé mi. Tôi cũng trong đám người ngơ ngác, xúc động, dù chẳng nhìn ra anh rể mình là người nào trong đám đông đang bước về khu nhà chờ. Ngày anh lấy chị, tôi mới lên 3 tuổi, anh rể chiều em vợ, thường bồng bế tôi, chở tôi đi chơi trên chiếc xe Honda 67 của anh, anh để tôi ngồi phía trước nơi bình xăng và chở tôi đi đó đây trong xóm tới bao giờ tôi chán thì thôi.

 

Mọi người được lùa vào nhà chờ, các tù nhân “cải tạo” ngồi một bên bên chiếc bàn dài, thân nhân ngồi bên đối diện, trong phòng các quản giáo đứng cầm súng canh gác, nghe tất cả những câu chuyện của gia đình tù nhân.

 

Ngẫu nhiên, gia đình tôi và gia đình cô Thảo ngồi kế bên nhau, hoá ra anh rể tôi và chồng cô Thảo chung nhóm lao động trong trại. Tôi chỉ cười cười nhìn anh rể, anh nhoài người với qua bàn, nắm tay từng người, hôn thằng con, rồi chúng tôi kéo ra ngoài sân, chỉ còn lại bà chị Cả tiếp tục ngồi với chồng. Bên nhà cô Thảo cũng vậy, sau khi thằng Tú 3 tuổi đứng giữa bàn, ngây thơ hát tặng bố bài hát “Cháu lên ba, cháu vô mẫu giáo”, bà ngoại và thằng Tuấn- Tú cũng đi ra ngoài sân, để hai vợ chồng cô Thảo tiếp tục câu chuyện thăm nhau.

 

Tôi đang đứng dưới tàn cây trứng cá, thằng cháu và mấy đứa nhóc chạy nhảy tung tăng rộn ràng cả khu đất, Tuấn đến bên tôi, chìa ra cái bánh bao:

 

-    Bạn ăn bánh bao nè, ngon lắm, bà ngoại tui làm đó.

 

Trong khi ông anh tôi và bà ngoại Tuấn đứng nói chuyện và coi chừng lũ trẻ chơi đùa, tôi và Tuấn ngồi xuống ăn bánh bao, kể nghe câu chuyện về trường lớp:

 

-    Tui học trong trường Phan Chu Trinh, ngay trong khu quân đội.

 

-    Còn tui, trường Đồng Tháp, cũng trong khu quân đội trại Đoàn Dư Khương.

 

-    Ở khu tui, cũng có cây trứng cá, thích lắm, trưa nào tan trường, tụi tui cũng hái một mớ, ăn vào ngọt lịm.

 

-    Mà bây giờ chính quyền mới đổi tên khu Phan Chu Trinh và Đoàn Dư Khương qua tên mới, nghe lạ hoắc!

 

Ăn xong bánh bao, hai đứa theo đám nhóc hái trứng cá, vừa hái vừa reo cười thích thú, mỗi đứa được cả bọc nhỏ, thì đến lúc hết giờ thăm nuôi.  Đoàn người thân nhân lại lục tục kéo ra cổng. Trước khi lên xe lam, tôi ngoái lại, nhìn cây trứng cá, tự dưng thấy buồn, rơm rớm nước mắt. Tuấn cũng có vẻ buồn, nhưng cố tỏ ra “bản lĩnh”, nhìn tôi, chọc quê:

 

-       Loan nhớ cây trứng cá hả? Lần sau tụi mình sẽ hái nhiều hơn. 

 

Tuấn đưa tôi bọc trứng cá của Tuấn, bảo đem về chia cho mấy đứa bạn trong xóm ăn cho vui.Tôi biết Tuấn làm vậy để tôi (và cả Tuấn) bớt buồn vì phải xa nơi chốn này (mới đến mà sao thân thương quá chừng!).Tôi vốn là cô bé nhạy cảm, nghĩ rằng, chúng tôi được trở về nhà, với cuộc sống thường nhật, còn cây trứng cá sẽ cô đơn hiu hắt vắng lặng với những người tù lặng câm, đất trời cằn cỗi nắng bụi mịt mù.

 

Sau lần đó, chị tôi và cô Thảo thỉnh thoảng đến nhà nhau khi có thông tin nào đó về trại, về các tin đồn mong manh cho ngày trở về đoàn tụ, cho những chuyến thăm nuôi sắp đến. Có lần chị dẫn tôi đến căn nhà trong cư xá sĩ quan của nhà cô Thảo thật đẹp. Dù đang trong thời kỳ “Cả Nước Xuống Hố”, đồ đạc trong nhà thưa thớt, nhưng vẫn còn nét sang trọng của căn nhà nhỏ, có lầu đúc hai tầng, sân thượng trồng cây cảnh, lan can trước nhà có trồng làn giây hoa lan leo, và trong sân nhà là cây táo Thái sum suê trái. Tuấn đưa tôi ra sân hái táo, những trái táo màu xanh, cỡ như trái chanh, cắn vào giòn rụm ngọt ngào. Ăn táo no nê, chúng tôi vào phòng học của Tuấn, căn phòng gọn gàng, sách vở bàn học ngay ngắn, nét phong lưu của gia đình còn in rõ trên từng ngóc ngách của căn nhà.

 

Rồi là cái Tết đầu tiên sau ngày Sài Gòn bị “giải phóng”, dù muốn dù không thì Xuân vẫn về, dẫu lòng người đang buồn hay vui. Hôm chiều cúng ông Táo, chị tôi mừng rỡ nhận được giấy báo thăm nuôi vào đầu tháng sau.  Chị đem một cái bánh Tét, chở tôi trên chiếc xe đạp đến nhà cô Thảo, trước là tặng quà Tết, sau là hỏi thăm bên nhà cô có giấy thăm nuôi cùng ngày hay không. Cô Thảo mừng rỡ đón chúng tôi, và cho biết sẽ cùng gặp nhau tại trại thăm nuôi kỳ tới.

 

Suốt buổi ngồi nghe chị tôi và cô Thảo nói chuyện, tôi không thấy Tuấn như lần trước, chỉ có bà ngoại đang chơi với thằng Tú ngoài bếp, tôi hỏi:

 

-    Cô ơi, Tuấn có nhà không cô?

 

Cô Thảo nhìn tôi, cười:

 

-    Tuấn đi chơi với Dì Ba rồi con.

 

Nghe vậy thì tôi biết vậy, chắc đang mùa Tết nên đi chơi với Dì, là em của cô Thảo, dù tôi chưa bao giờ gặp mặt Dì Ba.

 

Tháng sau, tôi háo hức dậy từ sớm, chuyến đi thăm nuôi lần này sẽ vui hơn lần đầu tiên, vì tôi đã biết nó sẽ diễn ra như thế nào, và tôi lại được gặp Tuấn, lại ngồi ăn bánh bao, hái trứng cá, kể nhau nghe chuyện học hành. Nhưng tôi đã thất vọng, vì nhà cô Thảo chỉ có cô, bà ngoại và thằng Tú, chẳng thấy bóng dáng Tuấn. Khi đứng ngoài sân dưới cây trứng cá, tôi hỏi bà ngoại:

 

-    Bà ơi, sao Tuấn bữa nay không đi thăm bố?

 

Bà cười, hiền hậu:

 

-       Chút nữa cô Thảo nói cho con nghe, nhe!

 

Tôi nôn nao, linh tính có chuyện gì đó, chẳng biết là buồn hay vui.Tôi chẳng còn bạn để cùng hái trứng cá, để nói chuyện trường lớp, tôi ngồi dưới gốc cây trứng cá suy nghĩ vẩn vơ, cây trứng cá không biết nói nhưng đang là “người bạn” cho tôi nương tựa lúc này, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Rồi tôi chợt lo lắng, hay là Tuấn bị bệnh? Mà phải là bệnh nặng lắm nên mới không đi thăm ba được.

 

Cuối giờ thăm nuôi, gia đình cô Thảo kéo đến nhóm gia đình tôi, vui vẻ:

 

-    Bây giờ tụi mình đón xe lam ra chợ Hốc Môn, tôi mời cả nhà bữa hủ tíu.

 

Đến chợ, trong lúc chờ thức ăn, cô Thảo nói thì thầm cho đủ hai gia đình nghe, trong khi cô nhìn tôi:

 

-    Con ơi, Tuấn nhà cô đi vượt biên với Dì Ba, đã đến trại tỵ nạn Songkla, Thailand, đã có thư về rồi.

 

Lúc ấy, trong xóm đã có vài gia đình đi vượt biên nên tôi cũng hiểu vấn đề, một cảm giác buồn bã xâm chiếm hồn tôi. Không hẳn vì tôi nhớ Tuấn, mà chính là chạnh lòng, là có chút ghen tỵ, vì Tuấn may mắn, đến một phương trời mới, tương lai mới, trong khi tôi vẫn ở lại mảnh đất đang bị chính quyền mới tàn phá tang thương, chuyện học hành và cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, bất mãn.

 

Vài tháng sau, tôi lại được theo chị đến nhà cô Thảo. Cô hớn hở kéo hai chị em vào nhà:

 

-    Thằng Tuấn đã đến Mỹ, vào đây xem hình Tuấn nè.

 

Vào phòng khách, cô lấy ra một phong bì trắng dầy cộp, thơm phức (sau này tôi gọi đó là mùi … Mỹ, khi gia đình tôi có hai ông anh vượt biên thành công, qua Mỹ, gửi thư về). Cô rút ra hai tờ thư và một số tấm hình:

 

-    Thư này Dì Ba gửi bà ngoại, còn tờ thư này Tuấn gửi cho cô, con đọc cho vui.

 

Tôi đón lấy tờ thư Tuấn viết:

 “Má ơi, con vừa đến Mỹ là được đi học liền à! Buổi sáng có xe đến rước, buổi trưa ăn ở trường luôn, thức ăn ngon lắm. Trường có cả hồ bơi, tha hồ tắm, các bạn và thầy cô người Mỹ ai cũng dễ thương.Má cho con gửi lời thăm Loan, em của cô Thanh nha. Nói với Loan ở đây không có cây trứng cá!...”

 

Tôi xúc động, thấy được an ủi vì Tuấn còn nhớ tôi. Đêm hôm ấy, tôi thao thức với giấc mơ vượt biên. Những tấm hình Tuấn đứng bên xe yellow bus của trường học, đứng chung với bạn trong lớp nơi sân trường, chụp với Dì Ba trước cửa nhà rợp đầy bóng mát bình yên…là những hình ảnh cho tôi niềm khát khao được tìm đến, thoát cảnh tương lai mù mịt nơi quê nhà, khi mà phong trào vượt biên bắt đầu trở nên rầm rộ, mà ai đó đã từng nói “cây cột điện nếu có chân cũng muốn đi”.

 

Sau chuyến thăm nuôi ấy, tôi không được đi thăm anh rể nữa vì anh chuyển trại về Hàm Tân Thuận Hải, còn ba của Tuấn bị chuyển ra ngoài trại phía Bắc. Hai gia đình liên lạc thưa thớt dần, rồi cô Thảo chuyển nhà về đâu, hoặc cũng có thể đã âm thầm đi tìm tự do, không ai biết.

………………………………..

    

Anh rể tôi "học tập cải tạo" hơn 6 năm mới được về. Thoát khỏi nhà tù nhỏ anh rể về nhà tù lớn với vợ con, tiếp tục cuộc sống khó khăn cả về tinh thần lẫn vật chất, vì anh vẫn bị phường quản lý, đi đâu làm gì cũng phải viết đơn trình báo. Cho đến năm 1991 thì gia đình anh chị tôi sang Mỹ định cư diện HO.

 

Còn tôi, dù muộn màng hơn Tuấn, tôi cũng ra khơi cuối năm 1989, may mắn đến bến bờ tự do và định cư ở Canada năm 1994.

 

Tuấn đang ở đâu đó trên đất Mỹ, nếu đọc được bài này, hy vọng Tuấn sẽ nhớ ra kỷ niệm thăm nuôi ba “cải tạo” ở thành Ông Năm, có cây trứng cá với cô bạn “bé nhỏ” dễ cười dễ khóc thuở nào.

 

Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.

 

Tôi cũng thế, cũng có những kỷ niệm êm đềm thời bé thơ bên cha mẹ anh chị em, kỷ niệm hai chuyến đi thăm anh rể ở Thành Ông Năm, tôi đứng chơi dưới gốc cây trứng cá chỉ trong chốc lát mà không thể nào quên, để khi ra về tôi bỗng thương cây trứng cá ở lại, có lẽ vì tôi thương anh rể tôi cùng bao người tù “cải tạo” khác còn ở lại chốn tù tội đoạ đầy lao khổ ấy.

 

Bao nhiêu năm trôi qua, mà mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn còn thương.

 

Edmonton, Tháng4 Đen 2025

 

KIM LOAN

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.