Hôm nay,  

Hùng Lân

10/10/202500:00:00(Xem: 5496)
Hung Lan 8

Nhạc sĩ Hùng Lân (1922-1986)

 
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầy Hùng Lân đó là cả một nền thánh nhạc Việt Nam, trong đó đại diện là nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh cùng với bao nhiêu bài thánh ca bất hủ để lại trong lòng giáo dân…”.

Hung Lan 1

Nhạc sĩ Hùng Lân giảng dạy tại trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ.


Với một lễ tưởng niệm trong nhà thờ như vậy, người ta dễ nghĩ Hùng Lân là một nhạc sĩ của thánh ca. Nghĩ như vậy không phải là sai nếu nhìn vào những bước đầu tới với âm nhạc của ông. Hùng Lân tên thật là Hoàng văn Hương, sanh ngày 23/6/1922 tại phố Phủ Doãn, Hà Nội, trong một gia đình Công Giáo. Mới được 8 tuổi, ông đã học nhạc với linh mục người Pháp tên P. Depautis, tên Việt là Cố Hương. Năm 1934, 12 tuổi, ông tiếp tục học nhạc với cha J. Bois tại Tiểu chủng viện Thánh Phêrô Hoàng Nguyên ở Hà Đông và Đại chủng viện Xuân Bích ở Hà Nội. Ông thành lập Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh quy tụ những nhạc sĩ sáng tác nhạc và giữ chức Đoàn Trưởng. Ông là một trong những người tiên phong sử dụng tiếng Việt để hát thánh ca tại Việt Nam. Ngày nay, trong mùa Giáng Sinh, tại khắp nơi, trong và ngoài thánh đường, bản thánh ca “Đêm Thánh Vô Cùng” (Silent Night), lời Việt của Hùng Lân luôn văng vẳng trong suốt mùa lễ. Tham dự các thánh lễ ngày Chủ Nhật tại Việt Nam cũng như tại hải ngoại, tôi nhiều lần nghe các bài thánh ca của Hùng Lân như Về Đây Mẹ Ơi, Về Bên Chúa, Trần Hoàn Vui Lên, Cao Vời Khôn Ví, Trên Núi Cây Dầu hay Tình Yêu Dâng Hiến mà không hề biết đó là nhạc của ông.

Hung Lan 2

Gia đình nhạc sĩ Hùng Lân.


Thánh ca chỉ giới hạn trong nhà thờ và hầu như giáo dân không biết tên tác giả nên không làm nên tên tuổi của nhạc sĩ sáng tác. Hùng Lân được nhiều người biết đến nhờ nhạc đời. Ngay từ những ngày còn nhỏ, tôi đã cùng các bạn học gân cổ hát Khỏe Vì Nước hay Hè Về. Các bài hát này quen thuộc với giới học sinh đến nỗi chúng tôi cũng hát một cách say sưa với những lời chế mà tác giả chắc không vừa lòng. Nhưng chính những lời chế đã chứng tỏ sức phổ biến của tác phẩm. Ca sĩ Quỳnh Giao, từ năm 1986, đã bắt đầu cầm bút viết về tân nhạc Việt Nam. Hát đã hay, cầm bút cũng hết xảy. Những bài viết của Quỳnh Giao trên báo Văn Học, Người Việt, Thế Kỷ 21 và giọng đọc trên các đài BBC và VNCR được mọi người theo dõi một cách say mê. Dĩ nhiên cô không quên viết về nhạc sĩ Hùng Lân, người thầy dạy cô môn nhạc lý và ký âm pháp tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn.  Cô tâm sự: “Thầy Hùng Lân rất tận tâm và nghiêm khắc nên lũ học trò vừa sợ vừa thương. Cho đến nay, đối với riêng Quỳnh Giao, thầy Hùng Lân là người dậy môn nhạc pháp giỏi nhất. Thầy đã đào tạo biết bao nhạc sinh xuất sắc và những người học trò của thầy sẽ không bao giờ quên ơn và quên phương pháp giảng dậy thật hữu hiệu mà dễ hiểu của thầy. “Hè Về” là ca khúc Mùa Hè đẹp nhất của chúng ta. Hùng Lân có biệt tài viết lời ca nhanh và liền lạc như một chuỗi hạt trai. Quý độc giả cứ thử hát lại rồi sẽ có cảm giác bồng bềnh, mênh mông, rào rạt trên sóng của áng mây hồng buổi sớm mai, của mầu xanh ngọc bích nơi cành lá, của mầu phượng đỏ rung rinh ngoài nắng. Và còn nữa: đám mây trắng đùa với nắng, đàn chim én tung cánh đo trời, dưới thì đồng lúa vàng nhịp nhàng cao thấp trên sườn đồi. Hương sen thanh nồng lan theo gió mát. Cảnh đã đẹp mà nhạc thì lôi cuốn, dìu dặt và trong sáng. Chỉ trong một đoạn mà người thưởng thức nghe được tiếng ve, tiếng trúc; ngắm được mây trắng, lá ngọc, chim én, lúa vàng, mà còn ngửi được hương thơm của sen nồng. Hát cả câu lên để thấy lòng lâng lâng, thanh thoát. Người ngoại quốc học tiếng Việt một trăm năm có lẽ cũng không thể đọc kịp lời khi hát ca khúc này”.

Hung Lan 3
Hình như bài “Hè Về” liên kết với Hùng Lân nhiều nhất. Tôi cũng gọi ông là “ông Hè Về” khi may mắn gặp ông. Trong cuốn Phiếm 15, tôi đã viết về cuộc hội ngộ bất ngờ này: Ngày tôi phồng mang trợn má hát bài “Hè Về” một cách say sưa, tôi đâu có để ý tới ông nào là tác giả. Vậy mà tôi đã gặp ông Hùng Lân trong một trường hợp hết sức bất ngờ. Tháng 9 năm 1967, tôi qua thủ đô Hoa Thịnh Đốn tham dự một cuộc hội thảo về chuyên ngành tôi đang làm việc. Ban tổ chức sắp đặt cho tôi cư ngụ tại khách sạn Annapolis. Cái khách sạn này làm phiền tôi không ít. Mỗi lần bắt taxi về lại khách sạn là một lần tôi vất vả với cái tên khách sạn. Lần đầu lớ ngớ qua Mỹ, phát âm tiếng Mỹ của tôi chưa chuẩn với những chỗ cần nhấn mạnh hay thả yếu. Đọc cái tên Annapolis thẳng băng, không nhấn mạnh vào âm thứ hai như dân địa phương, chẳng ông tài xế taxi nào hiểu cả. Có nhiều lần phải móc tấm danh thiếp của khách sạn trình cho các ông ấy thì mới được đưa về tới nơi tới chốn. Còn không, họ cứ tưởng tôi muốn đi tới bót…police! Tôi đang chán cái khách sạn oái oăm này, nơi mà trần xì mình tôi là người Việt Nam, thì một buổi sáng cuối tuần, dậy sớm, ra đường còn thưa thớt người, đang chổng mông ngó vào tủ kiếng của một cửa hàng, thì thấy thấp thoáng trong kính hai ông đầu đen. Quay đầu lại, một ông buột miệng hỏi bằng tiếng Việt:“Việt Nam hả?”. Tôi mừng như bắt được của. Ngày đó thấy một cái đầu đen Á Châu đã thấy có cảm tình, cái đầu đen này lại nói tiếng Việt thì mừng hết lớn. Chuyện nổ như bắp rang, hỏi “lý lịch” nhau, ông mới xưng ông là nhạc sĩ Hùng Lân. Hoá ra là ông…Hè Về! Ông hỏi han người đang ở đâu tá, tôi nói tình thực, ông phán ngay: “Ở vậy thì buồn chết! Về chỗ tớ ở cho vui!”. Vậy là tôi về khách sạn, trả phòng, đi theo ông nhạc sĩ. Nhà ông ở gần Tòa Bạch Ốc. Nghe thì sang nhưng đó là nhà nghỉ rẻ tiền của sinh viên tên Hartnett Hall. Ngày đó, dân Việt du học hay đi tu nhiệp tụ nhau ở đây. Cuối tuần tổ chức ăn uống nhậu nhẹt với nhau vui hết biết. Tôi vui vì có đồng hương nhưng cũng vì nhẹ túi được chút đỉnh, có thêm tiền đi chơi, sắm sửa. Ngày đó ông Hùng Lân làm việc tại Trung Tâm Học Liệu thuộc Bộ Giáo Dục, được cử qua Mỹ tu nghiệp. Qua vài tháng ở với nhau, chúng tôi coi nhau như anh em, dù ông lớn hơn tôi 16 tuổi. Tôi trở về Việt Nam trước, khi ông Hùng Lân về lại thì chúng tôi tới chơi nhà nhau ở Sài Gòn rất thường. Lúc đó ông ở Đa Kao, tôi ở Thị Nghè, khá gần nhau. Hùng Lân có dáng người đạo mạo nhưng rất vui vẻ, bình dị và dễ thân tình. Chơi với ông, tôi hầu như quên đi ông là một tên tuổi lớn, có những nhạc phẩm lớn. Bản Khoẻ Vì Nước thì dịp trình diễn thể thao nào mà không vang lên một cách hùng hồn. Bài Rạng Đông chúng ta ai chẳng biết.  Bản Việt Nam Minh Châu Trời Đông, Cô Gái Việt, Mùa Hợp tấu, Hận Trương Chi…Nhưng tôi hoàn toàn không biết ông cũng là tác giả bài Ông Nỉnh Ông Nang được ban hợp ca Thăng Long trình diễn rất xuất sắc. Tôi cũng không ngờ ông là cha đẻ của bài Em Yêu Ai mà lứa con tôi nghêu ngao hàng ngày. Nếu hỏi rằng, em yêu ai / Thì em rằng em yêu ba này /Thì em rằng em yếu má này / Yêu chị yêu anh / Yêu hết cả nhà. Hay là bản Thằng Tí Sún mà lũ con tôi ê a ngày nhỏ: Ê! Cái thằng Tí sún, Tí sún / Nhe cái răng nham nhở chổi cùn / Vì nó lười đánh răng sớm tối / Lại ăn kẹo suốt ngày không ngơi”.
Thời gian sống với nhau tại Harnett Hall đâu cũng chừng 3 tháng, mỗi cuối tuần đám sinh viên và viên chức tu nghiệp bày ra nhiều trò trong đó có trò ăn uống là sôi động nhất. Đầu têu là ông Hè Về. “Tiệc” thường là đùi gà chiên. Chén bát không có một tiệm nào sánh bằng. Những tên có chén ăn cơm đúng tiêu chuẩn không nhiều. Còn thì bất cứ thứ chi có thể đựng được đều được sử dụng hết kể cả bình cắm bông. Ông nhạc sĩ nhiều tuổi nhất săn sóc đám không vợ không con như ông anh cả nhiều tâm huyết. Ngày tôi về lại Việt Nam, va li của tôi được ông dán không biết bao nhiêu bảng tên chung quanh. Cho chắc ăn!

Hung Lan 4

Trong cuộc sống thường ngày, ông là người cẩn thận nhất trong những người cẩn thận mà tôi gặp. Tôi nghĩ khi sáng tác, chắc ông cũng mân mê bản thảo tới nẫu ra thành nước. Nhưng Hùng Lân không viết nhạc tình, thứ nhạc nẫu ra thành nước. Hình như ông chỉ có vài bài như “Sầu Lữ Thứ”, “Hận Trương Chi” là hơi tình một chút. Ngày ở Washington D.C. ông có khoe với tôi bài “Tuyết Rơi” không biết ông viết khi nào. Có lẽ là trong những ngày nhìn tuyết rơi tại Mỹ. Bài này ông chỉ viết lời Việt cho nhạc phẩm bất hủ “Tombe la Neige” của Adamo mà Phạm Duy đã đặt lời Việt trước đó. Đây là mấy câu đầu trong bản tiếng Việt của Hùng Lân: “Ngoài kia tuyết rơi đầy / Em không đến bên anh chiều nay / Ngoài kia tuyết rơi rơi /  Trong băng giá tim anh tả tơi”.
Nhạc Hùng Lân không phải nhạc có thể ngồi yên nghe mà là nhạc…giật. Nó thúc giục người nghe lắc lư nghêu ngao theo. Làm sao có thể ngồi yên trên ghế để hát Hè Về, Khỏe Vì Nước, Rạng Đông? Phải đứng lên, há họng hết cỡ, căng người rống lên mới đã. Nhưng bản “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” thì khác, trầm buồn nghiêm trang làm lắng đọng người nghe. Nhiều người cho rằng bản nhạc này xứng đáng là quốc ca của Việt Nam. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, Quốc Hội Lập Hiến khai mạc vào tháng 3/1956 đã có bàn về việc chọn quốc ca. Có nhiều bài đã được mang ra thảo luận gồm: “Chào Mừng Việt Nam” của Phạm Duy, “Nhân Dân Cách Mạng Việt Nam” và “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của Hùng Lân, “Một Trời Sao” của Ngô Duy Linh, “Suy Tôn Ngô Tổng Thống” của Ngọc Bích và Thanh Nam. Sau khi bàn cãi, bài “Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của Hùng Lân được coi là sáng giá hơn nhưng cuối cùng Quốc Hội Lập Hiến lại chọn bài quốc ca mà chính phủ Nguyễn văn Xuân và sau đó chính phủ Nguyễn văn Tâm đã chọn trước đó, rồi ra lệnh cho nhân viên đài Phát Thanh Sài Gòn giữ nguyên phần nhạc nhưng phải sửa lại tên từ “Tiếng Gọi Sinh Viên” thành “Tiếng Gọi Công Dân” và phần lời ca cho phù hợp với giai đoạn mới và vận hội mới của đất nước. Nhiều người tiếc cho quyết định này của quốc hội. Tại sao các dân biểu thời đó không can đảm chọn một bài  tụng ca đất nước tươi đẹp với nét nhạc trầm hùng của một nhạc sĩ đã có nhiều cống hiến cho nền nhạc Việt từ thuở phôi thai mà lại giữ lại một bản có lời lẽ sắt máu của một nhạc sĩ khi đó ở bên kia chiến tuyến. Lưu Hữu Phước đã phát biểu một cách biếm nhẽ về việc này trên đài phát thanh Hà Nội với những lời lẽ giễu cợt là bài hát của ông “vẫn cứ bị người bên kia chiến tuyến sử dụng vào một mục đích khác”. Nhắc tới chuyện này, Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy đã nhận xét: “Lưu Hữu Phước thuộc thành phần đảng viên Tân Dân Chủ bị lôi kéo vào Đảng Cộng Sản. Anh ta không đủ khí phách để chống lại việc đó và bị loại ra khỏi trường chánh trị như Đặng Ngọc Tốt, cũng không đủ tinh thần sắt máu để được Cộng Sản Việt Nam tin dùng như Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Trần Bửu Kiếm. Mặt khác, anh ta không có một khả năng đặc biệt về chánh trị mà Cộng Sản Việt Nam có thể khai thác được như Mai Văn Bộ. Trước sau, Lưu Hữu Phước chỉ là một nhạc sĩ. Do đó, Cộng Sản Việt Nam đã dùng anh ta như một văn công, sản xuất nhạc theo lịnh Đảng và lên tiếng về các vấn đề khác những khi Đảng thấy cần. Nói tóm lại, Lưu Hữu Phước đã sáng tác bản nhạc Tiếng Gọi Sinh Viên lúc còn là một sinh viên có tinh thần quốc gia. Ngày nay, anh ta là một văn công của Cộng Sản Việt Nam và mọi lời phát biểu của anh ta chỉ là do Đảng Cộng Sản Việt Nam mớm cho”.

Hung Lan 5

Bản “Việt Nam Minh Châu Trời Đông”  được sáng tác vào năm 1944 đã đoạt ngay giải nhất kỳ thi âm nhạc toàn quốc năm đó. Sau đó bản này được chọn làm bài ca chính thức của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Chính nhạc sĩ Phạm Duy cũng đã từng ca ngợi bản nhạc này: “Một bài âu ca oai linh, nghiêm trang nhất, xứng đáng nhất để làm bài quốc ca như đã có lần được đề xướng”.

Hung Lan 6
Hùng Lân đã đóng góp cho nền tân nhạc Việt Nam nhiều sáng tác mà người dân Việt Nam ít nhiều đều thuộc. Các em bé mẫu giáo có “Em Yêu Ai”, ‘Thằng Tí Sún”, “Con Cò”, Ông Trăng Thu”. Lớp thanh niên có “Hè Về”, “Rạng Đông”, “Cô Gái Việt”, “Khỏe Vì Nước” và nhiều bản nhạc hùng khác. Những người yêu quê hương đất nước có “Trăng Lên”, “Một Mùa Xuân Huyền Ảo”, “Vườn Xuân”, “Việt Nam Minh Châu Trời Đông”. Nhạc của ông làm chúng ta yêu đất nước, mến quê hương hơn. Bên cạnh những sáng tác quý giá nặng lòng với quê hương và các thế hệ người Việt đồng bào của ông, Hùng Lân còn dành cả đời mình cho sự nghiệp giáo dục âm nhạc. Ông giảng dậy tại Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ và nhiều trường trung học. Ông đã viết nhiều sách nghiên cứu và giáo khoa nhạc: Nhạc Ngữ Việt Nam, Tìm Hiểu Dân Ca Việt Nam, Nhạc Lý Tân Biên, Giáo Khoa Âm Nhạc, Nhạc Lý Toàn Thư, Hỏi và Đáp Nhạc Lý, Nhạc Hòa Âm và Nhạc Đơn Điệu, Thuật Sáng Tác Ca Khúc.

Hung Lan 7
Đã gặp ông, sống với ông một thời gian, hát nhạc của ông từ thuở nhỏ nhít, tôi thấy ông là người luôn lạc quan, vui vẻ, yêu người, yêu đất nước, không bao giờ tắt tiếng cười trong một cuộc sống hết sức nhẹ nhàng.  Ông rong chơi trong thế giới đong đầy nắng hạ này khi Hè Về, hết hè ông rộn ràng lên đường khi Rạng Đông vừa tới. Anh nghe chăng cung kèn rạng đông / Đang uy linh lừng vang trên không / Đang tha thiết hùng hồn / Khơi chí gan Lạc Hồng / Cháy lên nhuộm trên ánh hồng”.

Dù ờ bất cứ đâu ông vẫn là người mẫn tiệp trong xử thế, nhẹ nhàng trong cung cách sống. 64 năm tại thế có quá ngắn cho một người Việt yêu nước, tài hoa và hiền lương không?
  
                                                                                                      09/2025
                                                                                    Website: www.songthao.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.