Trên Đồi Gió

19/05/202117:42:00(Xem: 2508)

 

huongduongden
Minh họa: Đinh Trường Chinh

 

trên đồi gió khoác áo thư sinh tóc bạc

như lữ hành đi qua đồng bằng

thỏa mãn khát khao

sông dài núi rộng

thèm dòng sữa chảy ra từ lồng ngực

que diêm cháy một lần rồi tắt

vẽ vời chi

trăm cảnh lao đao

 

nắng mặt trời dừng lại

trên cơ thể em

chút dục vọng êm đềm

luyến ái làm bình minh nhọc mệt

những thói quen mài dũa thân xác

đời sống vẫn đầy nhọc nhằn

nhưng vẫn còn những buổi chiều

lá rụng mơ hồ

gió vô hình vuốt ve khung cửa

như  những liếm mặt mùa đông

 

nước chảy như dòng triết học

thấm những viên đá xanh

thánh nhân hiền lành êm ái xoa đầu

bàn tay run

trang giấy rách mông lung

 

khuôn mặt trở thành bao la

gom trọn người đàn bà và núi rừng, sông biển

vơi đầy âm ba

gắn hình ảnh lên từng sự vật

như bức tranh muôn màu

vẽ hành trình cuộc sống

đi đâu, về đâu …

bao mùa trăng chưa thấy câu trả lời

chỉ biết là đi đã xa…

 

thy an

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi khuyên ông tạm dừng ra quán uống rượu uống cà phê / bạn ta theo đảng Dân Chủ cũng nhiều mà Cộng Hòa cũng lắm / động tới chuyện bầu cử, vaccine, covid, khẩu trang / thế nào cũng có khả năng choảng nhau văng nước miếng / lúc say máu ngà có tránh trớ virus gì đâu?
“Đôi khi Chàng gần, đôi khi Chàng xa / Chàng vẫn ngồi đâu đó từ hôm qua / Cho đến hôm nay, và ngày mai nữa / Dòng sông vẫn đầy và trôi đi xa.”
Cả Trung Quốc, một cõi người đông như cỏ, mới có một tài năng thần kỳ như Bào Đinh, cắt thịt như gió xuyên qua lá, tưởng chừng là loạn đao, mà lại thứ tự lành nghề, đạt đến kỹ thuật cao, và nghệ thuật độc nhất vô nhị. Nhưng vài mươi năm sau, ông ta qua đời. Từ đó, không còn ai thừa kế. Tài năng vượt thời gian trở thành truyền thuyết. Về sau, biết bao nhiêu người vì truyền thuyết đã mơ tưởng tu luyện để tiến đến nghệ thuật kỳ tài. Vì không thể nào lưu truyền, tài năng cắt thịt không mang lại ích lợi chung là bao nhiêu.
khi tôi ngước mặt trả lời / bà đã quay lưng / nắng sớm vươn theo lấp lánh / trên tóc trên vai / áo phất phơ bay trong gió
chút ánh sáng của núi rạng đông / phương đó quê hương là mặt trời / rót chén rượu ân tình nắng ấm / lòng xao xuyến như lần đầu tìm nhau / tấm lòng như con nước dâng cao / hạnh phúc như đến từ vũ trụ / giấc mơ vẽ lên bức tranh trăm nỗi / cuộc tương phùng cuối đời
Thơ ông có bí mật ma thuật ra sao? Xin đọc Howl (Hú), bạn đọc sẽ thấy chữ nghĩa biến hóa, phẩm chất văn chương văn học, cách mạng văn học, hòa tan vào nhau, cuồn cuộn bất ngờ, như múa lân, không biết lúc nào nó ngóc đầu, đập đuôi, xàng xê, nhảy cao, trồn đồn, lăn chiên. Đám muá lân đó, có Bùi Giáng đóng vai tề thiên đầy phép tắc và huyền thoại.
Saigon mẹ tôi không miếng trầu tươi / Không miếng vôi nồng, môi miệng biếng cười / Mẹ ngồi lặng nghe từng con số tới / Số cứ tăng dần, mắt Mẹ lệ rơi
bất kể dự báo thời tiết hôm nay & mười ngày tới / ở một nơi rất riêng tư ̶ ̶ ̶ trước không hề có tên / nay gọi vùng vịnh bóng đè / đối mặt một đại dương chưa bao giờ phẳng lặng
Ba bài thơ trên được trích từ tập sách "Không Đứng Mãi Trong Tranh" của Lê Chiều Giang, sách gồm những bài tùy bút ngắn tác giả viết "Mà như vẽ lại... không hề tẩy xóa, chẳng tô vẽ thêm..." và những bài thơ "hiện thực đầy ẩn dụ". "Không Đứng Mãi Trong Tranh" của Lê Chiều Giang là cuốn sách đầu tay và duy nhất được tác giả gởi tặng đến những người bạn của Nghiêu Đề và bạn Cô, với lời Nguyễn Thị Thụy Vũ viết thay đề tựa: "Chúng tôi sẽ đọc Lê Chiều Giang, những giòng chữ chảy lui về quá khứ. Một quá khứ không thể nào không nhắc tới, nhớ tới... Những quá khứ của thời đã "Chết đi, sống lại." Đọc Lê Chiều Giang là đứng lùi lại, ngắm nhìn những bức tranh vẽ lại kỷ niệm, bạn bè, tình yêu, những điều rất xa xưa, bằng cặp mắt của hiện tại, bức tranh của những tháng ngày cũ ẩn hiện bằng cảm xúc riêng của tác giả, nhưng rất chung như chính trăn trở của bạn bè, thế giới, thời đại của Cô. Đọc thơ Lê Chiều Giang, là để ngọn khói trong lòng mình bay lên, là "Mổ trái tim.
Thơ ba dòng là một thứ “hố đen” trong vũ trụ thơ. Đó là thứ “thơ còn lại” sau khi thiêu rụi những rườm rà, những quy cách, những lối mòn của những đường lối thơ đã trở nên chán ngắt mà, trong đó, nổi bật nhất, là sự mượt mà du dương của chủ nghĩa lãng mạn. Thơ ba dòng, do đó, là thơ để nghĩ hơn là để ngân nga như những nhạc điệu êm tai và, trong tương tác với người đọc, như là một thứ thơ đã nén chặt, nó sẽ bùng nổ theo những liên tưởng và suy tưởng không ngờ.