Thầy

24/07/202117:22:00(Xem: 3589)
tHẦY

THẦY (4)
 
Vỗ đôi cánh hạc phong trần
Đất trời khoáng đạt thanh tân lạ thường
Tấu lên khúc nhạc cúng dường
Thế Tôn cùng với mười phương Phật đà
 
Thanh âm một cõi Sa Bà
Ba ngàn thế giới cũng là tại tâm
Nước non chung một cung trầm
Máu sa lệ sót những lầm than đau
 
Dấn thân mưa gió dãi dầu
Đạp rừng lửa cháy đội đầu gian nan
Cất lời tâm huyết ruột gan
Duy trì chánh pháp phục quang ấn truyền
 
Ra tay lèo lái con thuyền
Đạo pháp dân tộc gắn liền Phật môn
Hằng tâm nhiệt huyết bảo tồn
Dịch kinh viết sách tâm hồn thăng hoa
 
Đêm trường Thị Ngạn sáng lòa
Núi đồi nảy nở một tòa sen xanh
Từ bi, trí dũng tinh anh
Tinh thần vô úy mà thành đạo sư
 
Lời lời trác tuyệt chơn như
Đạo  đời phụng sự đạị từ Phật tâm
Trải qua thế sự thăng trầm
Độc hành chẳng ngại tháng năm giữ gìn
 
Trí huệ bát nhã tâm kinh
Tượng vương bản thể mang hình sậy lau
Phước phần còn có về sau
Trùng hưng Phật đạo bền lâu với đời
 
Trượng phu đứng giữa đất trời
Tòng lâm thạnh trụ cho người dựa nương
Đức hạnh ngược gió tỏa hương
Nước non một dải vô thường thịnh- Suy


THẦY (3)

Đất lệch cơ đồ đổ ngã nghiêng

Bao nhiêu oan uổng với ưu phiền
Sinh lộ cùng đường duyên tắc biến
Muôn vạn người đi biển máu loang

Phải buổi gian nguy biết đá vàng
Tinh thần vô úy chí bền gan
Từ bi chan chứa bao dung chúng
Chịu trận hồng phong phụng pháp tràng

Áo vải hài rơm giữ pháp hành
Tấc lòng tha thiết độ nhơn sanh
Gậy trúc trường sơn dường thạch trụ
Hải Đức thiền môn đủ chí thành

Hỏa hận tràn lan họa hiểm hung
Nhân tâm ly tán thậm mông lung
Tăng tục đôi đàng đầy ách nạn
Đạo đời hai nẻo hạn nghiệp chung

Thầy chẳng ra đi vì đại chúng
Cắm trượng đương thân đấng đại hùng
Chí lớn mưu đồ cơ phục hoạt
Ngục tù hình án vẫn ung dung

Núi dựng rừng xanh bóng áo già
Độc hành ly viễn khúc trường ca
Cung đàn cao xướng ai tòng hướng
Du sĩ không nhà đường thẳm xa

Khí phách ẩn tàng thân sậy lau
Cất lời tâm huyết dậy cơn đau
Quốc độ, dân sinh cùng đạo cả
Tiếc thay pháp lữ đã phai màu

Trí huệ thậm thâm rất nhiệm mầu
Đồng đạo bao người hiểu được đâu
Long tượng tòng lâm đâu vị tướng
Chỉ vì cơ nghiệp xướng thệ sâu

Đạo pháp xương long dân tộc hưng
Lê, Lý, Trần, Lê… cũng đã từng
Thiền sư hộ quốc còn ghi chứng
Sử sách ngàn thu xưng tán danh

Đôi mắt tinh anh thấu nhiễu nhương
Giương cao đuốc tuệ giữa đêm trường
Lời tâm huyết gọi trùng quang ấn
Truyền thừa chánh pháp tận hoằng dương

Viết sách dịch kinh vẫn miệt mài
Bản hoài chí nguyện chẳng hề phai
Vô ngã dấn thân hành hoạt xử
Xứng danh trưởng tử sứ Như Lai

 

Đồng Thiện
Ất Lăng thành, 06/2021

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thiên Lý Độc Hành, là tựa một tập thơ của Thầy, và cũng là bốn chữ được viết treo trên hương án của Thầy tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, nơi Thầy ở vào những năm tháng cuối đời. Thiên lý độc hành, hình ảnh biểu trưng nhất về Thầy Tuệ Sỹ, muôn dặm cô lữ dằng dặc nỗi ưu tư phận nhà vận nước…Và, khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, thấp thoáng ẩn hiện Người và cõi thơ tịnh tĩnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở/ Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan... Hỏi, tại sao, vì đâu, lòng muối kiên định... để bất khuất chưa tan?
Collage là một nghệ thuật. Hay chỉ là một thao tác thủ công? Có người cho cắt dán ( thơ ) mang tính nghệ thuật vì có sự suy nghĩ và đồng cảm của tác nhân. Có người cho đấy là một trò chơi lắp ráp trẻ con vì sự dễ dàng của cắt xén. Có người cảm nhận thơ cắt dán là một hình thức của họa thơ tân thời. Thử nghiệm xem
Mời đọc ba bài thơ: 1. Thảnh Thơi Đường Ngộ của Hoàng Xuân Sơn. 2. Nhẫn Nại của Thy An. 3. Buổi Trưa Ấy của Trần Yên Hòa
Có ai lật dùm pho Sử Việt | 50 năm máu vẫn thấm từng trang | Có ai cầm khăn thấm hộ | 50 năm sao lệ vẫn chứa chan.
Em là con cá Hồi | mấy chục năm sống nhờ biển khác | suối nào đợi em về | cho em trầm mình gửi nắm xương da | ôi những con suối quê hương
Hãy sống thêm một ngày nữa / Tới trước cánh cửa em chưa bao giờ mở ra / Hãy đọc lời ai điếu trên mộ chúng ta / Hãy đi qua / Dòng sông mùa lũ / Đặt tâm hồn / Vào trong tay một người khác / Hãy bắt đầu / Ngồi xuống / Giữa kẻ thù / Hãy để mưa / Rơi trên nghĩa địa / Hãy để tự do làm thành trí nhớ / Của quê hương chúng ta, hãy để người thiếu nữ / Đã chết trở thành hoa, hãy bắt tay một người .
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Em biết không, khi em chết trước. Giường ngủ sẽ chết theo. Toàn thể căn nhà đều bệnh nặng.
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.