Poems By Tuệ Sỹ: Hạ Sơn, Cuối Năm, Buổi Sáng Tập Viết Chữ Thảo, Một Thoáng Chiêm Bao (Translated Into English By Nguyên Giác Phan Tấn Hải)

10/02/202308:26:00(Xem: 5064)

blank 
Poems by Tuệ Sỹ

HẠ SƠN
CUỐI NĂM
BUỔI SÁNG TẬP VIẾT CHỮ THẢO
MỘT THOÁNG CHIÊM BAO
Translated into English by Nguyên Giác Phan Tấn Hải
  
HẠ SƠN
Ngày mai sư xuống núi
Áo mỏng sờn đôi vai
Chuỗi hạt mòn năm tháng
Hương trầm lỡ cuộc say
  
Bình minh sư xuống núi
Tóc trắng hờn sinh nhai
Phương đông mặt trời đỏ
Mùa hạ không mây bay
  
Ngày mai sư xuống núi
Phố thị bước đường cùng
Sư ho trong bóng tối
Điện Phật trầm mông lung
  
Bình minh sư xuống núi
Khóe mắt còn rưng rưng
Vì sư yêu bóng tối
Ác mộng giữa đường rừng
-- Tháng 9/1983
.
.
DOWN THE MOUNTAIN TRAIL
He would walk down the mountain trail tomorrow
with the monastic robe shabby at his shoulders
with his prayer beads worn for years and months
and with the incense misguidedly getting drunk.
  
He would walk down the mountain trail at dawn
to see the sad livelihood paint his hair whitish
to see the sunlight turn red in the east
and to see a summer without a flying cloud
  
He would walk down the mountain trail tomorrow
seeing the town as his dead-end streets
He coughed gently in the darkness
seeing the Buddha hall dip in the shadow
  
He would walk down the mountain at dawn
with the tails of his eyes still wet
Since falling in the monastic love for darkness
he yearned to tame the nightmare under the forest shroud.
-- September 1983
(Translated by Nguyen Giac)
.
.
CUỐI NĂM
Lận đận năm chầy nữa
Sinh nhai ngọn gió rừng
Hàng cà phơi nắng lụa
Ngần ngại tiếng tha phương
-- Rừng Vạn Giã 1977
  
THE YEAR END
The year shakily passes
The forestal wind hardly survives
The tomato rows bask in silky sunshine
From far away from home, my voice waffles.
-- Van Gia Forest, 1977
.
.

BUỔI SÁNG TẬP VIẾT CHỮ THẢO

Sương mai lịm khói trà
Gió lạnh vuốt tờ hoa
Nhẹ nhẹ tay nâng bút
Nghe lòng rộn âm ba
-- Sài Gòn 1980
.
PRACTICING CURSIVE WRITING AT DAWN

Morning dew blends in the tea aromas
The cold wind caresses the floral paper
Gently raising the brush,
I hear from my heart the sound of rippling water.
-- Saigon, 1980
.
.
MỘT THOÁNG CHIÊM BAO
Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bất tận
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao
---- Rừng Vạn Giã 1976
.
AN INSTANT OF DREAM
The large gala appears innocent in your bluish-green eyes
And your smile makes the rays of afternoon light slim
I love you for this instant of dream
where you fly like a white stork in an endless field
---- Van Gia Forest, 1976

.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi vàng không trắng được đâu / cha con cháu chắt cũng màu đó thôi / trắng làm sao được hỡi ơi / vàng đen cũng đức Chúa Trời thai sinh
Một mai đây đất nước này trở lại / Đón bình minh, trong ánh sáng chan hòa, / Chúng ta cùng nối lại bản tình ca / Khi Cô Vi đã lui vào dĩ vãng.
Ngày săn giặc, ngoại biên tây tiến / Đêm Hạ Lào, tác chiến viễn phương / Ba lô, súng trận, sa trường / Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Bờ hiên dĩ vãng xanh rờn nhung nhớ mà đau như có gai đâm vào da thịt một thời xưa ta ở nơi đâu trong ngôi nhà ấu thơ có hàng chè tàu chiếc cổng xi măng con đường đất đá trên bờ thành ấu thơ ta đã trèo lên ngồi vắt vẽo chân đánh đu hạnh phúc
Vĩnh Hảo, vốn dĩ là một nhà văn đa tài, từ cuối thập niên 1980's với những những tác phẩm mà chúng tôi ưa thích như: Thiên Thần Quét Lá (tập truyện), Núi Xanh Mây Hồng (truyện dài), Cởi Trói tập I & II (truyện dài), và Mẹ, Quê Hương và Nước Mắt (tập truyện), v.v... Ngoài ra, ông là một nhà báo, nhà thơ và hơn hết là một hành giả Đạo Phật nghiêm túc, từ tốn và chuẩn mực. Chúng tôi may mắn được xem ông như là một pháp hữu thân tín. Những gì cần nói, ông nói; những gì cần làm ông làm; thậm chí những gì im lặng, ông lại im lặng cũng vì lợi ích chung và cho số đông. Ông vốn nhẹ nhàng, thầm lặng nhưng nổi bật trong những gì ông để ý đến từ văn hoá, nghệ thuật, Phật giáo đến công cuộc hoằng pháp, và kể cả việc làm từ thiện ở miền sâu, miền xa tại Việt Nam.
Langston Hughes là một thi sĩ da đen nổi tiếng của Mỹ. Bài thơ này được xuất bản năm 1930, thời điểm của cuộc Đại Suy Thoái. Người da đen khi ấy vẫn chưa có quyền bình đẳng như bây giờ. Phải đợi đến phong trào Civil Rights vào thập niên 1960 luật pháp mới cho phép họ ăn chung bàn, ngồi chung chỗ với người da trắng... Bây và cả chủng tộc bây Hãy nhìn xuống nơi bây đang sống Mà xấu hổ. Hãy nhìn xuống những người da trắng Rồi nhìn lại mình Mà xấu hổ Rằng cái nghèo vẫn ngửa ngay ra đó, Rằng con ngu cái dốt cứ đẻ đầy ra đó
Tan sương đầu ngõ có đâu ngờ / Gặp lại ta là mây xanh lơ / Hôm nay tạnh ráo màu siêu thực / Bữa nọ òa bay sắc viễn mơ / Cảm tạ tình sau thương ý trước / Tri ân tâm đạo thấu huyền cơ / Biển dâu dẫu biết lòng chưa thỏa / Vẫn ngước trông lên lạy mịt mờ.
có thể chúng ta sẽ có thuốc chủng ngừa COVID-19 không lâu lắm / nhưng cũng cần có vắc-xin cho bệnh mù quáng, cố chấp / đất nước nầy đặt nền tảng trên người dân ̶ ̶ ̶ / of the people by the people for the people
“Chúng ta đến xứ sở này xa lạ / ra đi chưa hết lạ / nhưng không bao giờ thôi yêu mến / mặt hồ đại dương / căn nhà chở che hạnh phúc / lối mòn nhỏ ven rừng con ta bước tiên khởi tự do. / Đây là nơi chúng ta hàn gắn mình / Như thợ giày khâu vết thương há miệng / Sau đường dài ngập máu / sau đường dài ngập phân / sau chợ chiều cân xác chết chiến tranh / một triệu tiếng chuông không mua hết oan hồn. / Đây là nơi chúng ta sống đàng hoàng / và chết vào buổi chiều có cánh / bay về một xứ sở đã xa.
Từ em mắt biếc cười hiền / Mà nghe đau tận trong miền thịt xương / Mình không chung một con đường / Tháng ngày qua vẫn như dường ban sơ