Hôm nay,  

Ai đẹp hơn ai?

04/08/202300:00:00(Xem: 5115)

ai dep hon ai

“Guru” làm đẹp Michelle Phan, chủ nhân thương hiệu mỹ phẩm có tên EM Cosmetics. Hướng dẫn trang điểm và video cá nhân của cô trên YouTube đã thu hút được hơn một tỷ lượt xem. Hình từ Facebook của Michelle Phan trong post tự giới thiệu video “Beauty Survival Guide” của cô.

Đẹp là một khái niệm đã có từ ngàn xưa, tồn tại song song với sự tồn tại của nhân loại. Cái đẹp, vốn dĩ phức tạp và đa dạng, là một khái niệm không ngừng biến đổi và phát triển qua nhiều thời kỳ văn hóa. Dù loài người xưa nay luôn cố gắng định nghĩa và tô vẽ chân dung vẻ đẹp, vẫn không có một định nghĩa nào là tuyệt đối, ngược lại, các tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp thay đổi tùy nơi, tùy thời, tùy các nền văn hóa, không có một mực thước nào nhất định.
 
Thế nào là đẹp?
 
Đẹp là gì?” Người đầu tiên chính thức đặt ra câu hỏi căn bản này có lẽ là Socrates (469-399 TCN), và chính ông đã trả lời: “Đẹp là cái thích thú do tai nghe mắt thấy”.
 
Plato (427—347 TCN) cho rằng “Vẻ đẹp là hình ảnh nhất quán và không thể thay đổi của những điều tốt nhất, tinh tế nhất.” Ông cũng là người đầu tiên đưa ra một nền tảng siêu hình về cái đẹp: không dừng lại ở cái đẹp hữu hình, mà đi tìm những giá trị siêu cao vô hình.
 
Theo Immanuel Kant (1724-1804), vẻ đẹp là sự hài hòa giữa hình dáng và nội dung, là thứ khiến chúng ta cảm nhận sự tinh tế và thỏa mãn. Kant cho rằng cái đẹp gồm hai cảm nhận: cảm quan về sự cao cả và cảm quan về thẩm mỹ. Trong cả hai trường hợp, sự xúc động đều gây thích thú nhưng theo hai cách khác nhau: ý nghĩa cao cả khiến trái tim cảm động, còn mỹ thuật làm say mê trí óc của cặp mắt.
 
Với tôn giáo thì vẻ đẹp còn liên quan đến niềm tin. Nhà thờ Công giáo thời trung cổ coi Sắc đẹp là con đường dẫn đến Đức Chúa Trời. Aristotle, Nietzsche, Burke, và vô số tên tuổi khác cũng đã cố gắng định nghĩa cái đẹp theo nhiều cách thức và giá trị khác nhau. Tuy mỗi người diễn tả mỗi kiểu, điểm nhất quán vẫn nằm ở sự hài hòa, hoàn mỹ, tinh tế, gợi cảm, chinh phục.
 
Nói nôm na, đẹp là thứ gây thích thú, ngây ngất, mê say, đem lại cảm tình và sự rung động.
 
Quan niệm về cái đẹp qua các thời kỳ
 
Trong một bài tụng ca cổ, Plato đã viết về ba ao ước của người Hy Lạp thời xưa: 1. khỏe mạnh, 2. xinh đẹp, 3. trở nên giàu có bằng những việc làm lương thiện. Các bậc cha mẹ tương lai ở Hy Lạp thời ấy quan tâm đến vẻ đẹp của con cái đến mức họ đặt tượng Aphrodite hoặc Apollo, hai vị thần về dung mạo, trong phòng ngủ của họ để giúp họ sinh ra những đứa con xinh đẹp.
 
Theo họ, khuôn mặt đẹp lúc bấy giờ gồm mũi thẳng hoặc mũi hơi khoằm, trán thấp; và cặp lông mày tạo thành một vòng cung thanh tú ngay trên xương lông mày. Cái miệng đẹp tương tự như thời trang hiện tại: có màu đỏ tự nhiên, môi dưới đầy đặn hơn một chút so với môi trên. Quan trọng nhất là mái tóc đẹp. Tóc vàng óng ả được coi là đẹp nhất, không phải ngẫu nhiên mà nhiều vị thần Hy Lạp được miêu tả là tóc vàng.
 
Để làm đẹp, phụ nữ Hy Lạp ngày xưa đã biết sử dụng đồ trang điểm, bao gồm phấn phủ mặt, phấn xoa má làm từ một loại rễ cây, bút chì đen và đỏ và nước hoa, tất cả đều được thoa trước một đĩa kim loại sáng bóng dùng làm gương phản chiếu khuôn mặt của họ. Và, để che giấu những dấu hiệu lão hóa ngoài ý muốn, phụ nữ Hy Lạp đã dùng chì trắng che đi những nếp nhăn và nhuộm tóc để che màu bạc.
 
Tuy nhiên, việc trang điểm chỉ giới hạn ở “hetaera”, giới kỹ nữ, vì sắc đẹp không được coi là quan trọng đối với các bà nội trợ Hy Lạp. Lời tuyên bố dõng dạc của nhà hùng biện Demonthenes vẫn còn ghi trong trang sách, rằng một người đàn ông kết hôn với mục đích có "Một con chó giữ nhà trung thành. Còn vẻ đẹp và sự thỏa mãn các giác quan đến từ tình nhân."
 
Người La Mã tiếp tục cải thiện sứ mệnh làm đẹp. Vào thế kỷ thứ nhất, nhà thơ La Mã Ovid đã viết cuốn sổ tay đầu tiên về lời khuyên làm đẹp. Khoa học trang điểm đã nổi tiếng trong thế giới cổ đại. Theo nhà sử học Scarborough, phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu đã làm theo lời khuyên của Ovid và chuẩn bị mỹ phẩm theo công thức của ông, bôi sáp lên vùng da nhăn nheo để trông mượt mà hơn và thay thế lông mày bị rụng bằng lông thú.
 
Hình ảnh phụ nữ xinh đẹp của thời Trung Cổ -- từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 15 -- được tìm thấy trong truyền thuyết về Vua Arthur và những bài thơ của Chaucer. Tiêu chuẩn của cái đẹp hiện ra cụ thể. Tóc phải có màu vàng óng ả mịn màng, và nếu màu tóc không thích hợp thì nhuộm bằng thuốc nhập khẩu từ phương Đông." Và theo Christian Zacher, giáo sư dạy văn học thời trung cổ tại Đại học Bang Ohio, đôi mắt màu xanh-xám được đánh giá cao hơn bất cứ màu gì khác."
 
Khái niệm về vẻ đẹp nữ tính bước vào một kỷ nguyên mới với thời kỳ Phục Hưng ở Ý thế kỷ 15. Botticelli, Leonardo và Raphael đã vẽ nên một đám rước những khuôn mặt đa dạng kỳ diệu nhưng tất cả đều hợp nhất bởi một vẻ đẹp nhất định. Nhà sử học nghệ thuật Ravenal nói: “Những bức tượng Madonna’s của Boicelli rất đáng yêu vì chúng mỏng manh và dễ vỡ.” Những bức tranh về Đức Mẹ Đồng Trinh của Leonardo thể hiện một người phụ nữ đẹp không phải vì các đường nét hoàn hảo theo nghĩa Hy Lạp cũ mà bởi vì khuôn mặt của bà truyền cảm giác bí ẩn kết hợp với sự dịu dàng, mềm mỏng của người mẹ.”
 
Ở Anh, những người phụ nữ thanh lịch của thế kỷ 16 có mẫu đẹp lý tưởng của riêng họ, đó là hình ảnh của Nữ hoàng Elizabeth I chưa chồng. Họ bắt chước cách cắt nhuộm tóc, nhổ lông mày và trang điểm theo vẻ đẹp khuôn mặt nàng.
 
Vào cuối thế kỷ 18, cuộc cách mạng “Lên Tiếng” đã nổi lên trong làn gió chính trị của Châu Âu và Châu Mỹ. Chủ nghĩa cá nhân và quyền tự do cá nhân là những tiếng kêu tập hợp của thời đại. Trong nghệ thuật, "Khuôn mặt trở nên quan trọng," Theo Ellen G. Miles, người phụ trách hội họa và điêu khắc tại National Portrait Gallery: "Vào thời điểm này, người ta thực sự quan tâm đến chủ đề hơn là bối cảnh của bức tranh."
 
Chiến tranh thế giới thứ nhất, ở khía cạnh mỹ học, là ranh giới phân chia giữa thời đại Victoria và thời kỳ hiện đại. Thị hiếu về thời trang quần áo cũng như thị hiếu về khuôn mặt của phụ nữ đã thay đổi. Chiếc áo cọc-sê quấn eo quấn ngực được cất vào tủ và người phụ nữ hiện đại trang điểm công khai và thả tóc bồng bềnh. Đó là thời đại mà phụ nữ giành quyền bầu cử và thậm chí còn bị chỉ trích vì để mặt “thô kệch” không trang điểm. Marlene Dietrich - với đôi lông mày tỉa tót, đôi môi đỏ mọng và phấn hồng được tô bên dưới xương gò má chứ không phải trên gò má – là hình ảnh cái đẹp đi ngược lại với người phụ nữ mềm yếu da tái nhợt, môi hồng, tóc chẻ.
 
Các tiêu chuẩn về cái đẹp đã thay đổi qua nhiều năm tháng và đã phát triển đáng kể suốt chiều dài lịch sử. Tất nhiên, cái đẹp tùy thuộc vào văn hóa. Những gì một cộng đồng ngưỡng mộ có thể khiến một nhóm người khác thờ ơ, lạnh nhạt. Điều quyến rũ người này sẽ khiến người khác nhún vai. Vẻ đẹp là quan niệm cá nhân. Nhưng nó cũng phổ quát nên mới có những người đẹp quốc tế - những người đại diện cho một tiêu chuẩn được đại đa số công nhận, ưa chuộng.
 
Ngày nay, tuy vẫn đúng với định nghĩa của tự điển Oxford, rằng cái đẹp là “một phẩm chất làm hài lòng tim óc”, nhưng cái đẹp ngày nay đã bước ra khỏi sự phụ thuộc vào diện mạo, mà chủ yếu nằm ở thái độ, sự hiểu biết, và phong cách mà một người thể hiện cá tính riêng biệt của họ, bởi tim óc con người thay đổi và tiến hóa.  Một thí dụ điển hình là thế hệ thiên niên kỷ, những người sinh từ năm 1981 đến 1996, họ không cần hòa nhập vào hàng ngũ sắc đẹp truyền thống mà tự hào đứng tách biệt, tự hào khoác lên người chiếc áo cá tính. Định nghĩa mới về cái đẹp đang được viết bởi một thế hệ chụp ảnh selfie: những người này, là ngôi sao trang bìa, cho câu chuyện của chính họ.
 
Cái đẹp ngày nay, phải khiến các giác quan thức tỉnh, phải khuấy động cảm xúc, và trên tất cả, phải chinh phục.
 
Cảm nhận cái đẹp
 
Khổng Tử nói: "Mọi thứ đều có vẻ đẹp, nhưng không phải ai cũng nhìn thấy nó."
 
Thật vậy, cái đẹp đôi khi được ví như tình yêu, cảm nhận thì được, nhưng rất khó lý giải, cắt nghĩa.
 
Cái đẹp khó xác định nhất là cái đẹp trừu tượng trong nghệ thuật. Khi nghe một bản nhạc, xem một bức tranh, đọc một bài thơ, làm sao xác định? Vào một khoảnh khắc nào đó trong lúc thưởng thức, các đặc điểm của tác phẩm, có thể bao gồm từ những yếu tố đơn giản nhất như nhịp, âm, hoặc màu sắc, cho đến những kết hợp cấu trúc phức tạp hơn miêu tả nội tâm nhân vật hoặc quan điểm về thế giới, tạo cho chúng ta một cảm giác xao động, hưng phấn. Đó chính là cơ sở để nhận xét rằng tác phẩm đó hài hước, cảm động, tao nhã, sâu sắc, cuốn hút, sáng tạo, v.v. — từ đó chúng ta đánh giá tác phẩm có giá trị hoặc gọi đơn giản hơn bằng chữ “đẹp” hoặc “hay”. Các tác phẩm không “chạm” đến trái tim hay không để lại trong ta một ấn tượng, suy nghĩ gì, dù đôi khi có tác dụng giải trí, hay có vẻ hợp thời, không hẳn là tác phẩm hay đẹp. Cái đẹp tuy đôi khi chủ quan, nhưng trong nhiều trường hợp, vẫn cần phải có một trình độ thẩm mỹ căn bản mới có thể cảm và hiểu, mắt mới có thể “thấy”.
 
Cái đẹp dễ nhận ra, dễ hiểu hơn có lẽ là cái đẹp phổ thông về dung nhan ngoại hình của một người. Người đó đẹp hay không thường được đánh giá theo nhận xét của một cá nhân hay xã hội, sự đánh giá này ít nhiều bị ảnh hưởng bởi truyền thông, phim ảnh, theo một tiêu chuẩn vóc dáng, chiều cao, khuôn mặt, mắt, mũi, miệng, làn da, kỹ thuật trang điểm, phong cách đi đứng, thời trang ăn mặc… Vẻ đẹp bên ngoài không có nghĩa không bao gồm phong cách, thái độ, thậm chí cả tính nết vì tất cả những phẩm chất này sẽ lộ ra “bên ngoài”. Một người có phong cách lịch thiệp, lễ độ, tinh tế, tự tin, ăn mặt khiêm tốn giản gị vẫn sẽ tỏa sáng xinh đẹp. Một kẻ thô lỗ, bất lịch sự, khoe khoang, khoác lác dù diện mạo và ăn mặc đẹp đến đâu đi nữa cũng khó dấu sự xấu xí.
 
“Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, ông bà ta đã nói, vẻ đẹp ngoại hình không quan trọng bằng vẻ đẹp nội tâm, trí tuệ, phong thái, nhân cách mới là vẻ đẹp chân xác. Vẻ đẹp mỹ thuật ngoại hình có thể thay đổi tùy gu người đối diện, nhưng vẻ đẹp chân thiện nội tâm phần nào được xác định theo một tiêu chuẩn đạo đức xã hội nhất định. Chẳng hạn lòng tử tế, nhân hậu và sự chân thật ở thời đại nào cũng là vẻ đẹp bất di bất dịch, trong khi khoe khoang, dối trá, lừa đảo, luôn là hiện thân của sự xấu xí.
 
Thời đại selfie “tự cảm thấy đẹp!”
 
“Face” kia ngự ở trên tường
Thế gian ai đẹp được dường như ta?
 
Mượn hai câu này, xin bạn đọc đừng hiểu lầm, “Face” ở đây không phải là khuôn mặt, mà là Facebook.
 
Kỹ thuật hiện đại đã đặt quyền định nghĩa cái đẹp vào tay con người. Điện thoại di động cho phép mọi người tự chụp, chỉnh sửa hình ảnh của họ qua các ứng dụng đi kèm với các kỹ thuật chỉnh lọc được sử dụng để giải trí, tạo hình và “tự sướng”.
 
Bỏ chút thời giờ dạo một vòng facebook, ghé vào thăm “nhà” của các người đẹp xứ cờ hoa mà nhà báo Đinh Quang Anh Thái trong một bài viết gọi là “Đất Thần Kinh”, bạn sẽ không thể không thấy hằng hà sa số những tấm hình tự chụp, nhờ bạn trai chụp, bạn gái chụp, mượn người qua đường chụp, những tấm hình được chụp rồi chỉnh trang lại từ đầu đến chân “upload” đều đều lên facebook. Những người post những tấm ảnh này thường “khiêm tốn” không nói nhiều, nhưng ngụ ý “ai đẹp như ta”, hay đúng hơn “ta đẹp như ai” vì những tấm ảnh này, sau khi chỉnh sửa, ai trông cũng “đẹp”cũng “trẻ” như ai, tất cả mọi người đều trở thành “Poupée de cire Poupée de son”, những nàng búp bê giống nhau vô cảm đẹp hơn “tượng đá”.
 
Thật vậy, những tấm hình được các “mỹ nhân” sửa đổi công phu qua nhiều nấc bằng một ứng dụng “beauty app”với mục đích làm đẹp bằng cách bóp eo, kéo chân, chà láng da, chỉnh đường nét, bóp khuôn mặt cho thon gọn, làm trẻ lại, v.v… hiện đang là “dân số” chiếm đất facebook đông đảo. Kèm theo đó là những trận mưa “like” và những lời khen tưới mát cõi lòng.
 
Đẹp. Đẹp không? Đẹp phải không? Thật khó trả lời. Cái đẹp vốn dĩ đã phức tạp, lại qua tay viện thẩm mỹ ứng dụng bật tối đa chế độ chỉnh sửa, khiến những tấm hình tuy trở nên cân đối hài hòa về hình thể, nhưng không còn biểu lộ chút cảm xúc nào. Đẹp là gì? Chắc phải hỏi lại Socrates, nếu không thể cảm, làm sao có thể “thích thú vì mắt thấy tai nghe”!
 
Có lẽ phải chờ khi xã hội lại tiến hóa, khi các người máy AI tràn ngập lấn áp dân số loài người chi phối thị hiếu, lúc đó, con người lạc hậu như tôi may ra sẽ cảm nhận được cái đẹp “robot” của các chị em ta.
 
Còn bây giờ, xin vẫn được cảm nhận và thương cái đẹp theo các giá trị “lỗi thời”:
 
“Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bảy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương má phấn lại càng thêm xinh
Chín thương em ngủ một mình
Mười thương con mắt có tình với ai.”*
 
Nina HB Lê
 
*Ca dao Mười Thương 

Ý kiến bạn đọc
22/08/202302:58:19
Khách
Chu cha..bửa ni cô HB chơi xỏ đám độc giả nửa (Việt) vời ..đem cái thước của mấy ông triết gia từ tây qua đông để đo sắc đẹp ...đọc xong thấy mình thông (Anh) thái đến nổi thộn mặt ra luôn ;)
06/08/202318:30:51
Khách
Khổ thay phải che dấu cái đẹp tự nhiên bằng mặt nạ!
05/08/202307:44:20
Khách
Beauty is in the eyes of the beer drinkers !
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhóm Tuệ Đăng là gì có lẽ đến lúc này không còn xa lạ với cộng đồng người Việt hải ngoại và ngay cả trong nước nữa nhờ thời đại tin học và Youtube lan tỏa nhanh chóng. Nhóm lúc đầu là những thanh thiếu niên Phật tử yêu thích hát nhạc Phật và nhạc quê hương
Nếu "Lữ Hành" là cuộc hành trình thơ thới và bất tận của loài người và được ông sáng tác tại Sàigòn vào năm 1953 đầy hy vọng thì "Dạ Hành" là lúc con người đi trong đêm tối. Mà bóng tối ở đây không là một khái niệm về thời gian khi thiếu ánh mặt trời. Bóng tối là chông gai hiểm hóc của phận người và ca khúc cũng được viết tại Sàigòn nhưng mà là Sàigòn khói lửa của chiến chinh tham tàn năm 1970. Rồi Phạm Duy mới nói về cuộc đi bình thường là bài "Xuân Hành", sáng tác năm 1959, ở giữa hai bài hành kia. Hành trình bình thường và muôn thuở như câu hỏi đầy vẻ triết học là "người là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu ".... Ngươi từ lòng người đi ra rồi sẽ trở về lòng người. Người vừa là thần thánh, vừa là ma quỷ, biết thương yêu dai mà cũng biết hận thù dài…. Nhất là biết vui buồn giữa hai nhịp đập của con tim, ngay cả khi tim ngừng đập.
Buổi ra mắt sách "Mai Áo Dài" không tổ chức ở khu hội chợ Tết ở Phước Lộc Thọ. Không pháo, không múa lân, không thức ăn, nhưng vẫn thu hút hàng trăm người đến dự...
Thời gian là thực phẩm dài hạn cho người sống. Không thể từ chối. Hoặc chúng ta hưởng thụ nó. Hoặc chúng ta chịu đựng nó. Món ăn này đôi lúc sung sướng để nhai. Đôi lúc mệt mỏi, phiền hà để gặm. Đôi lúc nuốt xuống mắc nghẹn. Đôi lúc nuốt không kịp thở. Đã làm người thì nhất định phải biết sử dụng thời gian. Nếu ai không biết, thì thời gian sẽ sử dụng người đó.
Nghe danh nhà văn Khánh Trường đã lâu, biết ông là họa sĩ, điều đầu tiên tôi đi tìm là cái nhìn của người họa sĩ trong tập Truyện ngắn Khánh Trường I. Ông có những đoạn văn tả cảnh đầy màu sắc. “Bầu trời ửng sáng. Nắng rải xuống mặt đất màu vàng dịu. Nắng làm cho màu đỏ tấm pano quảng cáo trên mặt tường ngôi nhà bên kia đường hực lên rực rỡ, khiến thân thể trần truồng một trăm phần trăm của thiếu nữ nằm tênh hênh suốt chiều ngang tấm pano trở nên mời mọc quyến rũ hơn.”
Một tác phẩm Nghệ thuật Khái niệm gồm một quả chuối đơn giản, được dán bằng băng keo lên tường, đã được bán với giá 6,2 triệu đô-la tại một cuộc đấu giá ở New York vào thứ Tư, 20 tháng 11 năm 2024. Sự kiện này đã gây xôn xao không ít chẳng những trong thế giới nghệ thuật mà cả dư luận công chúng bên ngoài. Tác phẩm với nhan đề Comedian/ Diễn viên hài, của nghệ sĩ người Ý Maurizio Cattelan, đã trở thành một hiện tượng khi ra mắt vào năm 2019 tại Art Basel Miami Beach. Những người tham dự lễ hội nghệ thuật này cố gắng tìm hiểu xem liệu một quả chuối màu vàng đã chín có những đốm đen được dán trên bức tường trắng bằng băng keo bạc loại dán thùng gửi hàng là một trò đùa hay là lời bình luận đầy thách thức láo xược về các tiêu chuẩn đáng ngờ trong giới sưu tập nghệ thuật. Có lúc, một nghệ sĩ khác đã lấy quả chuối ra khỏi bức tường và điềm nhiên bóc vỏ ra ăn. Tác phẩm này thu hút quá nhiều sự chú ý đến mức ban tổ chức phải lấy nó xuống cất đi.
Ngày Lễ Tạ Ơn ở Mỹ (Thanksgiving Day, ngày Thứ Năm trong tuần lễ thứ tư của tháng 11 hàng năm) được cho là khởi đầu vào năm 1621 khi những người di cư đầu tiên từ Anh Quốc đến Bắc Mỹ tạ ơn và ăn mừng với người Mỹ Da Đỏ bản xứ về một vụ mùa màng được thu hoạch khấm khá. Đây cũng là dịp để chúng ta nghĩ đến và đền đáp phần nào những ơn nghĩa mà mình đã nhận được trong cuộc đời này. Trong bài thơ “Ta Về” của nhà thơ Tô Thùy Yên viết khi ra tù cộng sản sau cuộc đổi đời vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, có câu thơ mà tôi rất thích: “Cảm ơn hoa đã vì ta nở.” Hoa nở rồi hoa tàn là chuyện rất bình thường theo luật tắc sinh trụ hoại diệt của vạn vật, như nhà Phật đã nói. Hoa có biết nó nở vì ai không? Làm sao chúng ta biết được hoa nở là vì chúng ta? Nhưng nếu không có hoa nở thì làm sao nhà thơ họ Tô kia có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp mỹ miều của thiên nhiên! Vì vậy mà khi nhìn đóa hoa nở nhà thơ Tô Thùy Yên đã nói lời cảm ơn vì cảm nhận rằng hoa đã vì ông nở.
Trong thế hệ ca nhạc sĩ trẻ của nền âm nhạc Sài Gòn trước 1975, cặp uyên ương Lê Uyên - Phương có một chỗ đứng đặc biệt, độc nhất. Sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phương kéo dài từ đầu thập niên 1970s ở Miền Nam sang đến tận Hoa Kỳ sau 1975, cho đến khi ông mất vào năm 1999. Nhiều ca khúc Lê Uyên Phương cho đến nay vẫn chưa được chính thức phổ biến, phát hành. Để tưởng nhớ 25 năm ngày mất của người nhạc sĩ tài hoa, ca sĩ Lê Uyên sẽ tổ chức đêm nhạc chủ đề “Lê Uyên Phương 25 Năm Cuộc Đời– Tình Yêu – Âm Nhạc” tại Saigon Grand Center thành phố Fountain Valley vào ngày 7 tháng 12 2024.
Nhà thơ Kiên Giang nổi tiếng trên thi đàn miền Nam từ những năm 1955, 1956 với bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím” (được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc rất nổi tiếng)
Bài thơ này đăng trên Việt Báo vào ngày 10 tháng 8 2024. Người dịch nói rằng “…Bài này hợp với tinh thần Phật Giáo…” Tác giả Henry Wadsworth Longfellow là một nhà thơ nổi tiếng vào bậc nhất ở Mỹ trong thế kỷ 19. Trong tiểu sử không thấy nhắc ông có nghiên cứu về Phật Giáo. Có thể giải thích rằng những gì thuộc về chân lý, sự thật thì sẽ mãi mãi tồn tại, bất kể Đức Phật có thuyết giảng hay không.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.