Hôm nay,  

Nguyễn Đồng: Những Vệt Màu Còn Lại Của Một Thời Vàng Son

04/04/202500:00:00(Xem: 2794)

DN2
 
Sự ra đi lặng lẽ của họa sĩ Nguyễn Đồng là một một dư vang trầm mặc trong ký ức nghệ thuật Miền Nam – một miền nghệ thuật từng sống động, tự do, nơi mà hội họa được đặt ngang hàng với văn học, triết học, và cả chính trị. Ông không những là một trong những họa sĩ tiêu biểu của thời Đệ Nhị Cộng Hòa, mà còn là nhân chứng của một nền văn hóa từng rực rỡ trước khi bị chôn vùi dưới lớp bụi chiến tranh và chính trị hóa nghệ thuật.

Nguyễn Đồng – với ngôn ngữ tạo hình đầy bản sắc, vẽ nên những con người u uẩn, ánh sáng khúc xạ từ tâm tưởng – đã vượt qua cái đẹp đơn thuần. Tranh của ông không phải để ngắm, mà để chiêm nghiệm. Trong một thời kỳ hội họa Sài Gòn chưa bị thị trường điều tiết, ông là người vẽ vì niềm tin, vẽ như một chứng đạo, chứ không phải như một người làm nghề.

Từ sau biến cố 1975, ông lưu lạc sang Mỹ, tiếp tục sống bằng nghề cũ, nhưng không ồn ào, không phô trương, như chính cách ông rút lui khỏi sân khấu đời sống nghệ thuật ồn ã. Thế nhưng, sự vắng mặt của ông trong dòng chảy chính thức của cộng đồng không phải là dấu hiệu của lãng quên, mà là minh chứng cho một tình trạng đáng buồn: hội họa Việt Nam tại hải ngoại, đặc biệt tại Little Saigon, đã và đang bị bỏ quên, bên lề.

Hội Họa Tại Hải Ngoại – Tiếng Thở Dài Trong Căn Gác Tối

Không giống như văn học – vốn có một tầng lớp độc giả trung thành và còn hy vọng vài thế hệ cầm bút kế thừa – hội họa tại hải ngoại là một tiếng thở dài bị bóp nghẹt giữa đô thị hóa, kinh tế thị trường và sự lệch chuẩn thẩm mỹ của công chúng. Little Saigon là trung tâm văn hóa của người Việt lưu vong, nhưng không có lấy một bảo tàng nghệ thuật Việt, không có một không gian triển lãm phi thương mại chuyên nghiệp nào dành riêng cho hội họa.
Những gallery nếu có, phần lớn phục vụ cho nhu cầu... trang trí nội thất. Những tác phẩm được chọn treo thường phải “hợp mắt”, “dễ bán”, “đẹp kiểu tình cảm gia đình.” Hội họa phản kháng, hội họa biểu hiện, hội họa siêu thực, trừu tượng, những thể loại mang ngôn ngữ thẩm mỹ sâu sắc và mang tính triết lý – đều bị xếp vào hàng “khó hiểu”, “không bán được.”

Giới họa sĩ sống trong cảnh lặng lẽ, không báo chí chuyên ngành, không phê bình nghệ thuật, không sự hỗ trợ từ cộng đồng. Hội họa – vốn đã là một lĩnh vực đơn độc trong bất kỳ xã hội nào – ở hải ngoại/Little Saigon càng đơn độc hơn khi thiếu những “đối thoại thẩm mỹ.” Đó là chưa kể, nghệ sĩ thị giác thường không được mời gọi vào những sinh hoạt văn hóa lớn, vốn chỉ ưu tiên ca nhạc, văn học, hay diễn thuyết chính trị.


Khắc Nghiệt Hơn Văn Học – Vì Không Có Chữ Nghĩa Làm Gạch Nối

462950765_8586115874768347_385250546820878402_n
Văn học Việt hải ngoại còn có sách in, có báo chí văn nghệ, có các tổ chức như Văn Bút, có những diễn đàn như Văn Học, Khởi Hành, Hợp Lưu… (dù giờ đây đã ít nhiều tan biến), có những nhà văn có thể "viết về nhau." Hội họa thì khác. Họa sĩ Việt tại Mỹ sống như những nhà ẩn tu– vẽ trong tịch mịch, ít ai viết về mình, ít ai treo tranh họ. Và họ, cũng ít khi lên tiếng cho nhau.
Bấy giờ, không có một cộng đồng phê bình nghệ thuật nào có thể nâng họa sĩ ra khỏi sự cô đơn.

Nguyễn Đồng là một trong số ít họa sĩ được nhắc đến trong một vài bài viết hàn lâm hay hồi ký của các nhà văn cũ. Nhưng thế hệ họ đã gần như khép lại. Không ai còn viết tiếp những phác họa đời sống nghệ thuật lưu vong.

Giờ đây, khi ông ra đi, báo chí cộng đồng đưa tin như một "tin tức," nhưng không có phân tích, không có nhận định, không có "di cảo thị giác." Nếu một nhà văn mất đi, ít nhất còn lại những bài văn, hồi ký, những tập truyện in, những trích đoạn chia sẻ. Nhưng một họa sĩ mất đi – nếu không có ai giữ lại tranh ông, nếu không có một không gian lưu trữ tác phẩm – là cả một thế giới ngôn ngữ hình ảnh sụp đổ.

Hồi Sinh Một Di Sản, Hay Chấp Nhận Lạt Phai?

Câu hỏi đặt ra: phải chăng chúng ta – cộng đồng người Việt hải ngoại – đã mặc nhiên để mất đi một kho tàng nghệ thuật tạo hình mà lẽ ra phải được gìn giữ như một phần di sản? Việc này không riêng chỉ liên quan đến nghệ sĩ. Nó liên quan đến nhận thức cộng đồng về vai trò của nghệ thuật, của cái đẹp, của những gì không thể mua bán bằng tờ giấy in mực.

Nếu không có những trung tâm trưng bày – ít nhất cũng là một không gian độc lập, nhỏ thôi – thì tranh Nguyễn Đồng, và các họa sĩ như Đinh Cường, Khánh Trường, Hồ Thành Đức, Mai Chửng, hay Trịnh Cung, Nguyên Khai, cho đến thế hệ chị Ann Phong, anh Nguyễn Việt Hùng v.v.... sẽ biến mất dần khỏi ký ức công cộng. Nếu không có phê bình nghệ thuật – thì công chúng sẽ tiếp tục nhầm lẫn giữa một bức tranh in canvas số lượng lớn với một tác phẩm gốc mang tâm hồn của cả một đời người.

Little Saigon cần một cuộc phục sinh thị giác. Một không gian đối thoại nghệ thuật, vượt khỏi thẩm mỹ trang trí, vượt khỏi chủ nghĩa tiêu thụ. Sự ra đi của họa sĩ Nguyễn Đồng, cùng lúc Hồ Thành Đức có thể là hồi chuông sau cùng để chúng ta nhìn lại: nền hội họa lưu vong không mất vì thiếu tài năng, mà vì thiếu công chúng biết thưởng lãm và gìn giữ.

Chốn Bụi, 27 tháng Ba, 2025

Uyên Nguyên
  

Ý kiến bạn đọc
09/04/202505:49:56
Khách
Tin buồn nhưng phân tích có giá trị... Cũng là những tiếng kêu cứu não lòng về một bộ môn mà người thưởng ngoạn phải học hỏi nhiều và sở hữu tác phẩm thì phải tốn tiền...
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vào khoảng năm 1985, nhóm ca viên cũ của Ca Đoàn Trùng Dương được dịp họp mặt lần đầu tiên trên đất Mỹ với hai cựu ca trưởng của Trùng Dương là nhạc sĩ Lê Văn Khoa và nhạc sĩ Trần Chúc. Nhạc sĩ Lê Văn Khoa hôm đó đã cho mọi người nghe cassette tape nhạc giao hưởng trình bày trường ca Hòn Vọng Phu của nhạc sĩ Lê Thương với 4 giọng tứ ca, rồi nói “nếu chúng ta có một ban đại hợp xướng thì sẽ khác hơn nhiều.
Một chương trình ca nhạc đánh dấu 30 năm ngày thành lập ban hợp xướng vốn được xem là nổi bật nhất của cộng đồng người Việt hải ngoại, với những khúc nhạc bất hủ của bảy, tám mươi năm tân nhạc VN, trình diễn bởi những ca sĩ tên tuổi hiện thời, cùng hàng trăm nhạc sĩ, ca viên, dưới tài điều khiển của những nhạc trưởng đầy khả năng và giàu kinh nghiệm, hiển nhiên phải là một chương trình đặc sắc, để lại dư âm trong lòng người nghe một thời gian thật dài, nếu không muốn nói là mãi mãi…
Nhạc trưởng Trần Chúc năm 1989. 2. Ngàn Khơi ra đời, lần đầu tiên hát Viễn Du tháng 6, 1989. 3. Thái Thanh, hát Việt Nam Quê Hương Mến Yêu trong buổi hòa nhạc đầu tiên 1990. 4. Mai Hương hát VNQHMY 1990. 5. Ban Hợp Xướng Ngàn Khơi tại Concert 2007. 6. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương & Nhạc trưởng Lê Văn Khoa 1990.
WESTMINSTER, CA (Little Saigon) - Vở kịch “140 Lbs: How Beauty Killed My Mother” (“140 Lbs: Sắc Đẹp Đã Giết Chết Mẹ Tôi Như Thế Nào”) sẽ được trình diễn bởi chính tác giả Susan Liễu vào hai suất: thứ Bảy, ngày 21 tháng 12, lúc 7:00 P.M. và Chủ Nhật, ngày 22 tháng 12, lúc 2:00 P.M. tại Phòng Sinh Hoạt Người Việt, số 14771 Đường Moran, thành phố Westminster. Giá vé: $15 (sinh viên) và $25 (đồng hạng).
Khang Nguyễn vận dụng những hiểu biết sâu sắc về tâm linh và triết lý đã thu thập được để chuyển dịch thành một thứ ngôn ngữ tượng hình chứa đựng cảm xúc và tỉnh thức, như anh miêu tả “một ý thức tức thời về Thực thể, không bị ràng buộc vào quan niệm tư duy của trí óc.
Một bức tranh hiếm của Wolfgang Amadeus Mozart lúc 13 tuổi đã bán 4 triệu euro tương đương 4.4 triệu đô la Mỹ tại cuộc đấu giá của Christie’s tại thủ đô Paris -- vượt xa hơn giá được tiên đoán. Bức tranh cho thấy thần đồng âm nhạc Áo đang chơi phong cầm trong chuyến du lịch ở Ý vào tháng 1 năm 1770. Christie’s nói rằng nhà soạn nhạc và cha ông lúc đó đang ở tại Verona với Pietro Lugiati, một viên chức đứng đầu tại Cộng Hòa Venice. Một người ngưỡng mộ Mozart, ông ấy đã đặt mua bức tranh này. Bức tranh đã được cho là do nhà nghệ thuật Verona vẽ. “Nó [bức tranh] rất có thể đã được vẽ bởi bậc thầy ở Verona là Giambettino Cignaroli, là anh em bà con của Lugiati,” theo Astrid Centner, nhà lãnh đạo của phòng Old Masters của nhà đấu giá tại Paris, cho biết. Chỉ có 5 bức tranh của Mozart đã được vẽ lúc ông còn sống.
Ca nhạc sĩ Chế Linh là một biểu tượng cột trụ của dòng nhạc Vàng, ông là người Việt gốc Chàm và được xem là tứ trụ của nền Nhạc Vàng (chung với Duy Khánh, Nhật Trường, Hùng Cường). Tuy nhiên, trong “tứ trụ” đó, chỉ có duy nhất Chế Linh còn đi hát tới tận bây giờ và vẫn được đông đảo công chúng ngưỡng mộ.
Bốn mươi năm trước, tháng 11 năm 1979, ban nhạc rock Pink Floyd tại Anh đã trình làng băng nhạc thứ 11 có tên “The Wall” [Bức Tường].“The Wall” gồm 26 bài hát, 2 bản thu âm và một câu chuyện bí ẩn nhạc kịch, băng nhạc tiếp tục trở thành băng nhạc bán chạy thứ 2 trong lịch sử, theo bản tin của trang mạng www.theconverstion.com
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.