Hôm nay,  

Nhạc Lê Uyên Phương: Tình yêu hạnh phúc, đam mê, khổ đau

30/05/202500:00:00(Xem: 2473)
LE UYEN COPY COPY

Cặp tình nhân Lê Uyên & Phương trong một buổi nhạc của Asia.



Nhạc Lê Uyên Phương là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc Việt Nam xuất hiện từ cuối thập niên 1960s. Lúc đó là thời của quê nhà chinh chiến. Nhạc của Phương là lời ca ngợi tình yêu, như một cách kêu gọi hòa bình. Lúc đó là thời của những nỗi lo lắng về sống và chết nơi quê nhà chỗ nào cũng đạn bom, nhưng Phương lại hát lên lời ca ngợi hạnh phúc đôi lứa giữa một khung trời "Chờ trăng lên, nghe sao thì thầm"... Tình yêu của Lê Uyên Phương giữa bối cảnh đó tự thân đã là một triết lý của hiện sinh, rằng cuộc sống này là một hạnh phúc có thực, xa lìa mọi ý thức hệ.

Do vậy, nhạc Lê Uyên Phương gắn liền với tuổi trẻ, và không trừu tượng. Trong khi chúng ta nghe trên đài phát thanh về lời kêu gọi như hãy "khỏe vì nước kiến thiết quốc gia" hay "lời sông núi bừng vang bốn phương trời" thì nhạc Lê Uyên Phương là cái đời thực của cặp tình nhân yêu nhau, như lời hẹn hò rằng hãy "Chờ trăng lên, nghe sao thì thầm" với lời mời gọi "Hãy ngồi xuống đây. Xa cơn buồn phiền. Dẫu biết chia phôi"...

Nhạc của Lê Uyên Phương là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc Việt Nam, với phong cách lãng mạn và mang chiều sâu của những chất vấn rất mực triết lý hiện sinh. Cùng với giọng hát Lê Uyên, Phương đã tạo nên một không gian âm nhạc rất riêng—mãnh liệt, mê đắm, đôi khi u hoài—tựa như lời thì thầm giữa hai kẻ yêu nhau trong thời chiến. Âm nhạc của anh không chỉ phản ánh tâm tư cá nhân mà còn mở ra lối đi rất riêng cho dòng nhạc tình, ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ nghệ sĩ sau này.

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương sinh ngày 2/2/1941. Và ra đi ngày 29/6/1999, tức là ở tuổi 58, còn có thể gọi là hưởng dương. Không ngờ đời người một thiên tài như anh lại ngắn như thế. Lê Uyên Phương là một trong những nhạc sĩ lớn của dòng nhạc tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam trước 1975. Lê Uyên Phương tên thật là Lê Minh Lập, sinh tại Đà Lạt. Trong thời kỳ chiến tranh, giấy tờ bị thất lạc, trong hai lần làm lại giấy khai sinh, tên của anh bị nhân viên giấy tờ nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Từ đó anh giữ cái tên Lê Văn Lộc.

Cha của Lê Uyên Phương vốn họ Phan, nhưng vì cuộc cách mạng của Phan Bội Châu nên phải đổi thành họ Lê. Mẹ của Lê Uyên Phương là Công Tôn Nữ Phương Nhi, anh lấy chữ Phương trong tên của mẹ làm tên cho mình. Cùng với chữ Uyên, tên người bạn gái đầu tiên, anh ghép thành nghệ danh Lê Uyên Phương.

Lê Uyên Phương gặp Lâm Phúc Anh ở Đà Lạt, (hai người ở sát nhà nhau, số 18 và 22 Võ Tánh, TP.Đà Lạt), năm 1968 hai người thành hôn. Họ trở thành đôi tình nhân song ca nổi tiếng. Lê Uyên là nghệ danh do Lê Uyên Phương đặt cho. Anh tâm sự, lúc hai người từ Đà Lạt xuống Sài Gòn biểu diễn, có nhiều phóng viên hỏi, Lê Uyên Phương là ai? Lúc đó, anh buộc miệng chỉ cô gái (Lê Uyên) nói, đây là Lê Uyên. Còn tôi là Phương. Từ đó Lâm Phúc Anh chết luôn với nghệ danh Lê Uyên. Lúc hai người song ca được gọi Lê Uyên và Phương. Trước lúc gặp Lâm Phúc Anh, Lê Uyên Phương đã sáng tác ca khúc và ký với tên này.

Có thể nào nói chỉ một ý về nhạc Lê Uyên Phương? Có lẽ, có thể tóm gọn là: yêu nhau giữa vô thường. Bởi vì yêu nhau trong thời bốn phương biến động, nên cứ sợ rằng những khoảnh khắc của hạnh phúc, đam mê, khổ đau sẽ biến đi, sẽ nhạt phai....

Nhạc Lê Uyên Phương là tiếng nói của một thời tình yêu cháy bỏng giữa đam mê và khổ đau, một hơi thở gấp gáp của tuổi trẻ trong cõi vô thường. Chất nhạc của anh mang màu sắc đầy suy tư, với những giai điệu liêu trai, gợi cảm, đi sâu vào triết lý tình yêu và sự hữu hạn của đời người. Những bài hát như Dạ khúc cho tình nhân, Cho lần cuối, Vũng lầy của chúng ta đều mang nét riêng biệt với lối hòa âm đầy chất thơ, tự sự, như những lời tình tự giữa đôi lứa trong đêm sâu. Chính sự độc đáo này đã khiến nhạc Lê Uyên Phương trở thành dấu ấn khó phai.

Lê Uyên Phương khởi sự viết nhạc từ 1960 với “Buồn đến bao giờ” viết tại Pleiku. Những năm đầu thập kỷ 1970, từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên và Phương đã đem một luồng gió mới đến với tân nhạc. Trong những năm khốc liệt nhất của cuộc Chiến tranh Việt Nam, Lê Uyên và Phương, với những ca khúc nồng nàn, khắc khoải đôi khi bàng bạc, triết lý đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt. Lê Uyên Phương đã viết nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như: Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta…

Năm 1979, hai vợ chồng Lê Uyên Phương rời khỏi Việt Nam và định cư tại nam California, Hoa Kỳ. Họ có hai con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Khoảng thời gian từ 1984 – 1985 Lê Uyên bị tai nạn rất nặng (bị lạc đạn của hai băng đảng bắn nhau), sau đó, họ đã ngừng biểu diễn trên các sân khấu ở hải ngoại cho đến năm 1990 thì xuất hiện trở lại. Theo lời Lê Uyên, khoảng thời gian sau tai nạn đó, họ muốn lặng yên sắp xếp lại cuộc sống chứ không phải chia tay như nhiều lời đồn thổi. “Chúng tôi chưa bao giờ chia tay dù chỉ trong ý nghĩ. Bởi rất khó khăn chúng tôi mới đến được với nhau”. Lê Uyên cũng thừa nhận họ đến với nhau như một tất mệnh! Hầu hết các ca khúc của Phương đều tặng Lê Uyên.

Trong một ca khúc của Lê Uyên Phương đều mang cảm thức hạnh phúc và chia lìa. Bởi theo Lê Uyên Phương, tình yêu của một chàng trai 27-28 tuổi lại mang trong mình căn bệnh quái ác không biết ra đi lúc nào, với cô gái phơi phới mới lớn như Lâm Phúc Anh, đối với anh là quá lớn, “cho tôi yêu em nồng nàn, cho tôi yêu em nồng nàn, dù biết yêu tình yêu muộn màng…” Anh mất ngày 29 tháng 6/1999 tại bệnh viện UCI vì bệnh ung thư phổi.

Trong bài viết nhan đề “16 Năm – Lê Uyên Phương…” phóng viên Cát Linh của Đài RFA nhận định về Lê Uyên Phương: “…Nhạc của Lê Uyên Phương là những bản tình ca mang hơi thở lành lạnh của Đà Lạt, có vị cay cay của khói thuốc, có cả sự va chạm trần truội mang đầy giới tính bản năng của loài người… Nhạc của Phương không phải là những bản tình ca uỷ mị trừu tượng. Càng không mang vẻ đẹp của thiên tình sử trong đêm trăng của Romeo và Juilet. Cũng không cao sang trừu tượng như nhạc Phạm Duy. Ca từ trong nhạc của ông khi trần trụi, khi mềm mại, khi nóng bỏng như tiếng gào từ đồng vọng khét mùi khói lửa chiến tranh. Lê Uyên Phương viết nhạc từ chính cuộc sống và tình yêu của mình. Thời khắc khốc liệt nhất của giai đoạn đó đã làm cho lời nhạc của ông như lời trăn trối nhẹ nhàng, bình tĩnh, kêu gọi sống trọn vẹn ngày hôm nay vì không biết ngày mai sẽ ra sao.”

Trong mục Sổ Tay của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, với bài nhan đề “7-1999 – Vĩnh biệt Lê Uyên Phương” có một vài nhận xét như sau: “…Tôi yêu âm nhạc của Lê Uyên Phương, tôi yêu tiếng hát cũa hai bạn, tiếng hát khêu gợi làm sao, tiếng hát đi qua một trái tim nóng bỏng và đã thổi cái hơi nóng tình yêu nồng nàn qua trái tim người nghe, bắt họ phải nhận ra rằng đó mới là tình yêu đích thật. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi nghe nhạc Lê Uyên Phương tôi đều nhìn thấy lại Đà Lạt, một Đà Lạt đã làm tôi trở thành một người khác với con người thời niên thiếu của tôi. Và tôi nhận ra mình ngu ngốc và rụt rè biết bao trước một Lê Uyên Phương chân thật và dũng cảm.”

Nhà phê bình Nguyễn Lê Phan trong bài viết nhan đề “Lê Uyên Và Phương Với Những Bài Tình Ca Bất Hủ” trên Việt Báo ngày 3/7/2003 trích như sau: “Mỗi ca khúc của Phương là một dấu ấn trên đời sống và trên tình yêu. Mỗi câu hát của Uyên là mỗi hơi thở đậm đà cho đời sống và cho tình yêu đó. Hình ảnh của giảng đường B thuộc trường Khoa Học Saigon của những năm 70 bỗng hiện về rõ từng nét trong trí nhớ của tôi khi vừa nghe ca khúc đầu tiên trong cuốn băng mới phát hành của LU&P, cuốn Khi loài thú xa nhau, sự khác biệt giữa khoảng cách của gần 30 năm, lạ lùng thay lại là giọng hát của họ, nếu ngày xưa là sự trong sáng, nhiệt tình thì giờ đây là sự đậm đà, đầy nội lực và tiềm tàng một khả năng thuyết phục lớn, nếu dùng chữ nôm na, thì đó là sự chín mùi trong cung cách đặc biệt mà không một người ca sĩ nào có được, anh không chú trọng đến làn hơi mà chỉ thể hiện những cảm xúc tự nhiên như khi anh đang viết ca khúc mình đang hát, vì thế đối với Phương, người thưởng ngoạn luôn phải nhìn anh là một nhạc sĩ sáng tác hơn là một ca sĩ, ngay cả lúc anh đang trình diễn trên sân khấu và đó cũng là điểm hết sức độc đáo của cặp nghệ sĩ này.”

Trong bài viết nhan đề “Chiều Nhạc Lê Uyên: Sài Gòn: Cà Phê, Sân Trường Thời 1970s,” nhà báo Đoàn Hưng nhận định:

“…Lê Uyên Phương sống và hát với tâm trạng của một cặp tình nhân mà “…ngày mai ta không còn thấy nhau…”. Tâm trạng đó không phải là tâm trạng chung của tuổi trẻ Việt Nam trong thập niên 70 hay sao? Những cặp tình nhân yêu nhau trong thời chinh chiến. Những người vợ mới cưới của những người lính Cộng Hòa. Những chàng thanh niên rời bỏ mái trường, bạn bè, người yêu để đi ra chiến trường. Trong một tâm trạng như vậy, hỏi sao mà tuổi trẻ đã hát say sưa: “…cho tôi yêu em nồng nàn, dù biết yêu tình yêu muộn màng…”

Nhạc của Lê Uyên Phương là nhạc của sân trường. Bởi vì đôi song ca này đã thành danh từ những sân khấu sân trường đại học, từ Đà Lạt đến Sài Gòn. Nhớ lại buổi trình diễn đầu tiên của Lê Uyên Phương tại Viện Đại Học Đà Lạt. Khi chương trình sắp bắt đầu, thì dàn âm thanh bị trục trặc, không biết đến lúc nào thì mới sửa chữa xong. Sinh viên đã đến đầy khán phòng. Lê Uyên Phương lúc đó đã quyết định hát không cần micro, dàn âm thanh. Chỉ với một cây đàn guitar và một đôi tình nhân. Hát bằng con tim, hát bằng hơi thở. Khoảng 18 bài hát đã được trình diễn như vậy, với sự hưởng ứng của khán giả cũng bằng con tim, bằng hơi thở. Huyền thoại Lê Uyên Phương đã bắt đầu như vậy. Để rồi sau đó, tour lưu diễn đầu tiên ở Sài Gòn liên tiếp trong 19 ngày, cũng tại các sân trường đại học, cũng với một cách trình diễn như vậy, đã chinh phục trái tim của hàng trăm ngàn khán giả trẻ đang yêu, đang khắc khoải vì sự mong manh của tình yêu.”

Như thế đó, nhạc sĩ Lê Uyên Phương đã xuất hiện như thế, và các âm thanh độc đáo của anh đã ở lại cõi này, để trở thành chứng tích cho các cặp tình nhân…

Nhà thơ Phi Lộc, thuộc thế hệ rất trẻ, đã bày tỏ lòng say mê nhạc Lê Uyên Phương qua bài thơ "Biết Ơn Anh" với ghi chú là: Thương kính tặng nhạc sĩ Lê Uyên Phương... Bài thơ trích lời ca từ những sáng tác của nhạc sĩ Lê Uyên Phương: Buồn Đến Bao Giờ, Cho Lần Cuối, Nỗi Buồn Dâng Hiến, Dạ Khúc Cho Tình Nhân, Có Được Cuộc Đời. Các dấu hoa thị là trích lời Lê Uyên Phương. Bài thơ như sau:

Biết ơn anh, trộm nhìn qua khe cửa
Nghe cuộc đời là biển sóng vi vu
Biết ơn anh, "buồn đến bao giờ"*
"Cho lần cuối"* không là lời cách biệt
Biết ơn anh, một "nỗi buồn dâng hiến"*
Vạn nỗi sầu bỗng hoá đá xanh tươi
Biết ơn anh, "ngày em thắp sao trời"*
"Đời sỏi đá, biết mình si mê"* vô ngại
Biết ơn anh, từng lời ca ý nhạc
Tặng hết "cuộc đời mưa nắng đổi thay"*
Biết ơn anh, qua trùng khơi bão nổi
Sống trọn "cuộc đời bỡ ngỡ như quên"*
---- Phi Lộc
(California, ngày 24 tháng 5 năm 2025)

Vào cuối tháng 6 này sẽ là Chương trình “Có Nhau Trong Đời” -  tưởng niệm nhạc sĩ Lê Uyên Phương tại Coffee Factory, đúng 26 năm ngày anh từ trần 29/6/1999. Đêm nhạc sẽ được tổ chức vào ngày 29/6/2025, lúc 7 giờ chiều. Danh ca Lê Uyên sẽ tâm tình và trình bày 14 tình khúc Lê Uyên Phương với tiếng đàn của Đình Chương đến từ Oklahoma.  

***

LE UYEN PHUONG trang nhất

CÓ NHAU TRONG ĐỜI:
7 GIỜ TỐI CHỦ NHẬT 29 THÁNG 6 NĂM 2025
tại Coffee Factory:
15582 Brookhurst St.
Westminster, CA 92683

Vé bảo trợ $150 - Vé VIP $100 - Vé đồng hạng $80. Để đặt vé và bảo trợ cho chương trình, vui lòng nhắn tin ban tổ chức 714-725-5445. Ban tổ chức chân thành cảm ơn Coffee Factory hỗ trợ Lê Uyên thực hiện chương trình tưởng niệm này.
 

Ý kiến bạn đọc
09/06/202516:09:35
Khách
Khi chương trình sắp bắt đầu, thì dàn âm thanh bị trục trặc, không biết đến lúc nào thì mới sửa chữa xong. Sinh viên đã đến đầy khán phòng. Lê Uyên Phương lúc đó đã quyết định hát không cần micro, dàn âm thanh. Không hiểu anh Phan Tấn Hải có thông tin từ đâu. Tôi là người đại diện Nhóm Triết ĐL tổ chức buổi đó cho anh chị LUP tại giảng đường Spellman khoảng 58 năm về trước.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ đã đến lúc cần đặt câu hỏi về sự dễ dãi của khán giả Việt? Như vấn đề đã nhiều lần được đặt ra trong lãnh vực âm nhạc, với các cô ca sĩ trong nước gầm rú phô diễn kỹ thuật mà không chuyển tải được nội dung, cảm xúc của bài hát, phim Việt còn nặng tính phô trương kỹ thuật, nhét tất cả mọi chiêu, mọi nước bước, đường đi, ý tưởng vào cùng một vở kịch, rồi nhấn hết cỡ âm lượng, dung lượng trấn áp khán giả - hệt như việc đãi ăn một bữa buffet quá no nê, để khách hài lòng với số lượng mà quên để ý đến phẩm lượng.
QUẬN CAM, California (Phan Tấn Hải/VB) -- Buổi Lễ Bế Giảng Lớp Thư Pháp Hương Việt - Khóa 1 đã thực hiện hoàn mãn hôm Chủ Nhật ngày 17/3/2024 tại quán Heaven Restaurant Karaoke Entertainment ở thị trấn Stanton, Quận Cam, Caliofnria.
Trong mười hai con giáp được dùng cho năm âm lịch, mười một con là loài thú có thật. Chỉ có rồng là con vật tưởng tượng. Nhưng có phải rồng chỉ có trong tưởng tượng không? Nếu chưa ai tận mắt nhìn thấy rồng thì tại sao người ta có thể vẽ rồng?
Hát Rong thường quy tụ một nhóm năm bảy người đi hát từ nơi này sang nơi khác, đặc biệt họ có những buổi trình diễn do các nhà quý tộc, lãnh chúa hay những kẻ giàu có tổ chức trong các lâu đài dinh thự...
Nói chung, nghệ thuật muôn đời là bị kiểm duyệt. Đó là số phận bất khả tách rời của một tác phẩm. Thời xưa, tác giả có thể bị rơi đầu, thời nay thì bị tường lửa. Trước tiên, một bài thơ, một bức tranh, một pho tượng, một tiểu thuyết, một bộ phim… ban đầu là lựa chọn của tác giả, được chọn lọc để trình bày những gì tác giả tin là đẹp nhất có thể, và nêu lên được nhận thức của tác giả đối với cuộc đời. Người độc giả, người xem tranh, người xem phim sẽ có những phản ứng khác nhau. Và rồi, phía chính quyền, phía dư luận nhà trường, phía các giáo hội… sẽ dòm ngó xem có vi phạm cấm kỵ nào hay không để sẽ phải vùi dập, nếu cần. Ngay cả tại Hoa Kỳ, những phản ứng cấm kỵ vẫn xảy ra, bất kể Tu Chính Án số 1 là quyền Tự do phát biểu. Có những cuốn sách này vẫn bán được tại các tiệm sách hay trên mạng, nhưng lại bị cấm đưa vào thư viện công cộng nhiều nơi, nhất là tại các tiểu bang bảo thủ.
Những buổi học này không chỉ là về đường nét và màu sắc, mà còn mở ra một hành trình đáng yêu với câu chuyện, tạo ra những kí ức bền vững và xây dựng mối quan hệ ý nghĩa. Hãy đưa gia đình của bạn đến trải nghiệm nghệ thuật đặc biệt này, nơi không chỉ học về nghệ thuật mà còn kết nối qua sự sáng tạo và khám phá về biểu đạt nghệ thuật.
Vào những năm (1226-1258) đời vua Trần Thái Tông, sau chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ nhất, nước ta vẫn luôn được đặt trong tình trạng chuẩn bị cho chiến tranh. Sống cạnh một đế quốc hùng mạnh, đã từng xâm lấn và san bằng một nửa thế giới đâu có dễ dàng. Có lẽ điều ấy đã thúc đẩy vua Trần Thái Tông giao trọng trách viết sử cho Lê Văn Hưu, gia sư của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải...
Nếu “cà phê muối”, như là phát minh của đất Huế mặn mà, có thể thoải mái kết bạn với giới trẻ của đất ngọt Sài Gòn suốt mười năm qua mà không gây nên gợn sóng nào thì “trà muối”, chỉ mới là công bố khoa học của một người Mỹ thôi, lại chọc giận hầu như cả nước Anh, khiến giới ngoại giao Mỹ phải nhấp nhổm vào cuộc, sợ rằng chuyện bé sẽ xé ra to, làm sứt mẻ quan hệ thâm tình giữa nước. [1] Chuyện diễn ra sau khi nữ Giáo sư Michelle Francl, thuộc Bryn Mawr College ở tiểu bang Pennsylvania, lên tiếng rằng để có ly trà ngon thì phải… nêm muối.
Giáp Thìn đang tới. Theo truyền thống mừng Tết Nguyên Đán, hình ảnh linh vật rồng đã xuất hiện nhiều nơi trên phố chợ và truyền hình, với ước mơ cho năm mới, người người sẽ an vui hơn, sẽ hạnh phúc hơn. Bất kể, thực tế là năm 2024 có thể sẽ bất an nhiều hơn, tại Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới. Bài viết này, trong dịp đưa tiễn năm cũ để đón năm mới, sẽ kể chuyện rồng, với lời chúc an vui và hạnh phúc cho tất cả chúng sinh nơi cõi này.
Rồng là con vật đứng đầu trong bộ Tứ linh: Long, Lân, Quy, Phụng. Và như chúng ta biết, Rồng là con vật không có thật trên thế gian và Rồng do trí tưởng tượng của con người mà có trong chuyện cổ tích. Trong 12 con giáp, Rồng đứng thứ Năm và có thể nói là con vật cao quý nhất vì lúc nào Rồng cũng ở trên… mây.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.