Hôm nay,  

Nhạc Lê Uyên Phương: Tình yêu hạnh phúc, đam mê, khổ đau

30/05/202500:00:00(Xem: 2480)
LE UYEN COPY COPY

Cặp tình nhân Lê Uyên & Phương trong một buổi nhạc của Asia.



Nhạc Lê Uyên Phương là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc Việt Nam xuất hiện từ cuối thập niên 1960s. Lúc đó là thời của quê nhà chinh chiến. Nhạc của Phương là lời ca ngợi tình yêu, như một cách kêu gọi hòa bình. Lúc đó là thời của những nỗi lo lắng về sống và chết nơi quê nhà chỗ nào cũng đạn bom, nhưng Phương lại hát lên lời ca ngợi hạnh phúc đôi lứa giữa một khung trời "Chờ trăng lên, nghe sao thì thầm"... Tình yêu của Lê Uyên Phương giữa bối cảnh đó tự thân đã là một triết lý của hiện sinh, rằng cuộc sống này là một hạnh phúc có thực, xa lìa mọi ý thức hệ.

Do vậy, nhạc Lê Uyên Phương gắn liền với tuổi trẻ, và không trừu tượng. Trong khi chúng ta nghe trên đài phát thanh về lời kêu gọi như hãy "khỏe vì nước kiến thiết quốc gia" hay "lời sông núi bừng vang bốn phương trời" thì nhạc Lê Uyên Phương là cái đời thực của cặp tình nhân yêu nhau, như lời hẹn hò rằng hãy "Chờ trăng lên, nghe sao thì thầm" với lời mời gọi "Hãy ngồi xuống đây. Xa cơn buồn phiền. Dẫu biết chia phôi"...

Nhạc của Lê Uyên Phương là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc Việt Nam, với phong cách lãng mạn và mang chiều sâu của những chất vấn rất mực triết lý hiện sinh. Cùng với giọng hát Lê Uyên, Phương đã tạo nên một không gian âm nhạc rất riêng—mãnh liệt, mê đắm, đôi khi u hoài—tựa như lời thì thầm giữa hai kẻ yêu nhau trong thời chiến. Âm nhạc của anh không chỉ phản ánh tâm tư cá nhân mà còn mở ra lối đi rất riêng cho dòng nhạc tình, ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ nghệ sĩ sau này.

Nhạc sĩ Lê Uyên Phương sinh ngày 2/2/1941. Và ra đi ngày 29/6/1999, tức là ở tuổi 58, còn có thể gọi là hưởng dương. Không ngờ đời người một thiên tài như anh lại ngắn như thế. Lê Uyên Phương là một trong những nhạc sĩ lớn của dòng nhạc tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam trước 1975. Lê Uyên Phương tên thật là Lê Minh Lập, sinh tại Đà Lạt. Trong thời kỳ chiến tranh, giấy tờ bị thất lạc, trong hai lần làm lại giấy khai sinh, tên của anh bị nhân viên giấy tờ nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Từ đó anh giữ cái tên Lê Văn Lộc.

Cha của Lê Uyên Phương vốn họ Phan, nhưng vì cuộc cách mạng của Phan Bội Châu nên phải đổi thành họ Lê. Mẹ của Lê Uyên Phương là Công Tôn Nữ Phương Nhi, anh lấy chữ Phương trong tên của mẹ làm tên cho mình. Cùng với chữ Uyên, tên người bạn gái đầu tiên, anh ghép thành nghệ danh Lê Uyên Phương.

Lê Uyên Phương gặp Lâm Phúc Anh ở Đà Lạt, (hai người ở sát nhà nhau, số 18 và 22 Võ Tánh, TP.Đà Lạt), năm 1968 hai người thành hôn. Họ trở thành đôi tình nhân song ca nổi tiếng. Lê Uyên là nghệ danh do Lê Uyên Phương đặt cho. Anh tâm sự, lúc hai người từ Đà Lạt xuống Sài Gòn biểu diễn, có nhiều phóng viên hỏi, Lê Uyên Phương là ai? Lúc đó, anh buộc miệng chỉ cô gái (Lê Uyên) nói, đây là Lê Uyên. Còn tôi là Phương. Từ đó Lâm Phúc Anh chết luôn với nghệ danh Lê Uyên. Lúc hai người song ca được gọi Lê Uyên và Phương. Trước lúc gặp Lâm Phúc Anh, Lê Uyên Phương đã sáng tác ca khúc và ký với tên này.

Có thể nào nói chỉ một ý về nhạc Lê Uyên Phương? Có lẽ, có thể tóm gọn là: yêu nhau giữa vô thường. Bởi vì yêu nhau trong thời bốn phương biến động, nên cứ sợ rằng những khoảnh khắc của hạnh phúc, đam mê, khổ đau sẽ biến đi, sẽ nhạt phai....

Nhạc Lê Uyên Phương là tiếng nói của một thời tình yêu cháy bỏng giữa đam mê và khổ đau, một hơi thở gấp gáp của tuổi trẻ trong cõi vô thường. Chất nhạc của anh mang màu sắc đầy suy tư, với những giai điệu liêu trai, gợi cảm, đi sâu vào triết lý tình yêu và sự hữu hạn của đời người. Những bài hát như Dạ khúc cho tình nhân, Cho lần cuối, Vũng lầy của chúng ta đều mang nét riêng biệt với lối hòa âm đầy chất thơ, tự sự, như những lời tình tự giữa đôi lứa trong đêm sâu. Chính sự độc đáo này đã khiến nhạc Lê Uyên Phương trở thành dấu ấn khó phai.

Lê Uyên Phương khởi sự viết nhạc từ 1960 với “Buồn đến bao giờ” viết tại Pleiku. Những năm đầu thập kỷ 1970, từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên và Phương đã đem một luồng gió mới đến với tân nhạc. Trong những năm khốc liệt nhất của cuộc Chiến tranh Việt Nam, Lê Uyên và Phương, với những ca khúc nồng nàn, khắc khoải đôi khi bàng bạc, triết lý đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt. Lê Uyên Phương đã viết nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như: Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta…

Năm 1979, hai vợ chồng Lê Uyên Phương rời khỏi Việt Nam và định cư tại nam California, Hoa Kỳ. Họ có hai con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Khoảng thời gian từ 1984 – 1985 Lê Uyên bị tai nạn rất nặng (bị lạc đạn của hai băng đảng bắn nhau), sau đó, họ đã ngừng biểu diễn trên các sân khấu ở hải ngoại cho đến năm 1990 thì xuất hiện trở lại. Theo lời Lê Uyên, khoảng thời gian sau tai nạn đó, họ muốn lặng yên sắp xếp lại cuộc sống chứ không phải chia tay như nhiều lời đồn thổi. “Chúng tôi chưa bao giờ chia tay dù chỉ trong ý nghĩ. Bởi rất khó khăn chúng tôi mới đến được với nhau”. Lê Uyên cũng thừa nhận họ đến với nhau như một tất mệnh! Hầu hết các ca khúc của Phương đều tặng Lê Uyên.

Trong một ca khúc của Lê Uyên Phương đều mang cảm thức hạnh phúc và chia lìa. Bởi theo Lê Uyên Phương, tình yêu của một chàng trai 27-28 tuổi lại mang trong mình căn bệnh quái ác không biết ra đi lúc nào, với cô gái phơi phới mới lớn như Lâm Phúc Anh, đối với anh là quá lớn, “cho tôi yêu em nồng nàn, cho tôi yêu em nồng nàn, dù biết yêu tình yêu muộn màng…” Anh mất ngày 29 tháng 6/1999 tại bệnh viện UCI vì bệnh ung thư phổi.

Trong bài viết nhan đề “16 Năm – Lê Uyên Phương…” phóng viên Cát Linh của Đài RFA nhận định về Lê Uyên Phương: “…Nhạc của Lê Uyên Phương là những bản tình ca mang hơi thở lành lạnh của Đà Lạt, có vị cay cay của khói thuốc, có cả sự va chạm trần truội mang đầy giới tính bản năng của loài người… Nhạc của Phương không phải là những bản tình ca uỷ mị trừu tượng. Càng không mang vẻ đẹp của thiên tình sử trong đêm trăng của Romeo và Juilet. Cũng không cao sang trừu tượng như nhạc Phạm Duy. Ca từ trong nhạc của ông khi trần trụi, khi mềm mại, khi nóng bỏng như tiếng gào từ đồng vọng khét mùi khói lửa chiến tranh. Lê Uyên Phương viết nhạc từ chính cuộc sống và tình yêu của mình. Thời khắc khốc liệt nhất của giai đoạn đó đã làm cho lời nhạc của ông như lời trăn trối nhẹ nhàng, bình tĩnh, kêu gọi sống trọn vẹn ngày hôm nay vì không biết ngày mai sẽ ra sao.”

Trong mục Sổ Tay của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, với bài nhan đề “7-1999 – Vĩnh biệt Lê Uyên Phương” có một vài nhận xét như sau: “…Tôi yêu âm nhạc của Lê Uyên Phương, tôi yêu tiếng hát cũa hai bạn, tiếng hát khêu gợi làm sao, tiếng hát đi qua một trái tim nóng bỏng và đã thổi cái hơi nóng tình yêu nồng nàn qua trái tim người nghe, bắt họ phải nhận ra rằng đó mới là tình yêu đích thật. Bao giờ cũng vậy, mỗi khi nghe nhạc Lê Uyên Phương tôi đều nhìn thấy lại Đà Lạt, một Đà Lạt đã làm tôi trở thành một người khác với con người thời niên thiếu của tôi. Và tôi nhận ra mình ngu ngốc và rụt rè biết bao trước một Lê Uyên Phương chân thật và dũng cảm.”

Nhà phê bình Nguyễn Lê Phan trong bài viết nhan đề “Lê Uyên Và Phương Với Những Bài Tình Ca Bất Hủ” trên Việt Báo ngày 3/7/2003 trích như sau: “Mỗi ca khúc của Phương là một dấu ấn trên đời sống và trên tình yêu. Mỗi câu hát của Uyên là mỗi hơi thở đậm đà cho đời sống và cho tình yêu đó. Hình ảnh của giảng đường B thuộc trường Khoa Học Saigon của những năm 70 bỗng hiện về rõ từng nét trong trí nhớ của tôi khi vừa nghe ca khúc đầu tiên trong cuốn băng mới phát hành của LU&P, cuốn Khi loài thú xa nhau, sự khác biệt giữa khoảng cách của gần 30 năm, lạ lùng thay lại là giọng hát của họ, nếu ngày xưa là sự trong sáng, nhiệt tình thì giờ đây là sự đậm đà, đầy nội lực và tiềm tàng một khả năng thuyết phục lớn, nếu dùng chữ nôm na, thì đó là sự chín mùi trong cung cách đặc biệt mà không một người ca sĩ nào có được, anh không chú trọng đến làn hơi mà chỉ thể hiện những cảm xúc tự nhiên như khi anh đang viết ca khúc mình đang hát, vì thế đối với Phương, người thưởng ngoạn luôn phải nhìn anh là một nhạc sĩ sáng tác hơn là một ca sĩ, ngay cả lúc anh đang trình diễn trên sân khấu và đó cũng là điểm hết sức độc đáo của cặp nghệ sĩ này.”

Trong bài viết nhan đề “Chiều Nhạc Lê Uyên: Sài Gòn: Cà Phê, Sân Trường Thời 1970s,” nhà báo Đoàn Hưng nhận định:

“…Lê Uyên Phương sống và hát với tâm trạng của một cặp tình nhân mà “…ngày mai ta không còn thấy nhau…”. Tâm trạng đó không phải là tâm trạng chung của tuổi trẻ Việt Nam trong thập niên 70 hay sao? Những cặp tình nhân yêu nhau trong thời chinh chiến. Những người vợ mới cưới của những người lính Cộng Hòa. Những chàng thanh niên rời bỏ mái trường, bạn bè, người yêu để đi ra chiến trường. Trong một tâm trạng như vậy, hỏi sao mà tuổi trẻ đã hát say sưa: “…cho tôi yêu em nồng nàn, dù biết yêu tình yêu muộn màng…”

Nhạc của Lê Uyên Phương là nhạc của sân trường. Bởi vì đôi song ca này đã thành danh từ những sân khấu sân trường đại học, từ Đà Lạt đến Sài Gòn. Nhớ lại buổi trình diễn đầu tiên của Lê Uyên Phương tại Viện Đại Học Đà Lạt. Khi chương trình sắp bắt đầu, thì dàn âm thanh bị trục trặc, không biết đến lúc nào thì mới sửa chữa xong. Sinh viên đã đến đầy khán phòng. Lê Uyên Phương lúc đó đã quyết định hát không cần micro, dàn âm thanh. Chỉ với một cây đàn guitar và một đôi tình nhân. Hát bằng con tim, hát bằng hơi thở. Khoảng 18 bài hát đã được trình diễn như vậy, với sự hưởng ứng của khán giả cũng bằng con tim, bằng hơi thở. Huyền thoại Lê Uyên Phương đã bắt đầu như vậy. Để rồi sau đó, tour lưu diễn đầu tiên ở Sài Gòn liên tiếp trong 19 ngày, cũng tại các sân trường đại học, cũng với một cách trình diễn như vậy, đã chinh phục trái tim của hàng trăm ngàn khán giả trẻ đang yêu, đang khắc khoải vì sự mong manh của tình yêu.”

Như thế đó, nhạc sĩ Lê Uyên Phương đã xuất hiện như thế, và các âm thanh độc đáo của anh đã ở lại cõi này, để trở thành chứng tích cho các cặp tình nhân…

Nhà thơ Phi Lộc, thuộc thế hệ rất trẻ, đã bày tỏ lòng say mê nhạc Lê Uyên Phương qua bài thơ "Biết Ơn Anh" với ghi chú là: Thương kính tặng nhạc sĩ Lê Uyên Phương... Bài thơ trích lời ca từ những sáng tác của nhạc sĩ Lê Uyên Phương: Buồn Đến Bao Giờ, Cho Lần Cuối, Nỗi Buồn Dâng Hiến, Dạ Khúc Cho Tình Nhân, Có Được Cuộc Đời. Các dấu hoa thị là trích lời Lê Uyên Phương. Bài thơ như sau:

Biết ơn anh, trộm nhìn qua khe cửa
Nghe cuộc đời là biển sóng vi vu
Biết ơn anh, "buồn đến bao giờ"*
"Cho lần cuối"* không là lời cách biệt
Biết ơn anh, một "nỗi buồn dâng hiến"*
Vạn nỗi sầu bỗng hoá đá xanh tươi
Biết ơn anh, "ngày em thắp sao trời"*
"Đời sỏi đá, biết mình si mê"* vô ngại
Biết ơn anh, từng lời ca ý nhạc
Tặng hết "cuộc đời mưa nắng đổi thay"*
Biết ơn anh, qua trùng khơi bão nổi
Sống trọn "cuộc đời bỡ ngỡ như quên"*
---- Phi Lộc
(California, ngày 24 tháng 5 năm 2025)

Vào cuối tháng 6 này sẽ là Chương trình “Có Nhau Trong Đời” -  tưởng niệm nhạc sĩ Lê Uyên Phương tại Coffee Factory, đúng 26 năm ngày anh từ trần 29/6/1999. Đêm nhạc sẽ được tổ chức vào ngày 29/6/2025, lúc 7 giờ chiều. Danh ca Lê Uyên sẽ tâm tình và trình bày 14 tình khúc Lê Uyên Phương với tiếng đàn của Đình Chương đến từ Oklahoma.  

***

LE UYEN PHUONG trang nhất

CÓ NHAU TRONG ĐỜI:
7 GIỜ TỐI CHỦ NHẬT 29 THÁNG 6 NĂM 2025
tại Coffee Factory:
15582 Brookhurst St.
Westminster, CA 92683

Vé bảo trợ $150 - Vé VIP $100 - Vé đồng hạng $80. Để đặt vé và bảo trợ cho chương trình, vui lòng nhắn tin ban tổ chức 714-725-5445. Ban tổ chức chân thành cảm ơn Coffee Factory hỗ trợ Lê Uyên thực hiện chương trình tưởng niệm này.
 

Ý kiến bạn đọc
09/06/202516:09:35
Khách
Khi chương trình sắp bắt đầu, thì dàn âm thanh bị trục trặc, không biết đến lúc nào thì mới sửa chữa xong. Sinh viên đã đến đầy khán phòng. Lê Uyên Phương lúc đó đã quyết định hát không cần micro, dàn âm thanh. Không hiểu anh Phan Tấn Hải có thông tin từ đâu. Tôi là người đại diện Nhóm Triết ĐL tổ chức buổi đó cho anh chị LUP tại giảng đường Spellman khoảng 58 năm về trước.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đó là nơi quyền lực Trung Quốc bị lu mờ trước sức mạnh chính nghĩa của những người tỵ nạn Tây Tạng tay không tấc sắt: các đại hội phim ảnh quốc tế. Dù vậy, dòng phim của người Tây Tạng lưu vong hoàn toàn không phải là những lời sách động trần gian – đây chính là các thước phim xuất thế gian từ những người bị rượt đuổi ra khỏi quê nhà đang đưa lên thật cao những lý tưởng của từ bi, thương yêu, tha thứ và hòa bình. Ngay cả trong mùa đại dịch, một phim hoạt họa ngắn của một nữ đạo diễn gốc Tây Tạng đã được chọn vào phần chiếu chính yếu trong một đại hội phim quốc tế tại Canada. Phim hoạt họa dài 5 phút nhan đề ‘Yarlung’ của nữ đạo diễn Kunsang Kyirong được chọn vào chiếu ở Ottawa International Film Festival 2020, nơi được xem là đại hội phim về hoạt họa lớn nhất Bắc Mỹ. Phim ‘Yarlung’ là các bản vẽ bằng chì than (charcoal), nối kết thành dòng chảy thi ca ghi lại thời thơ ấu của cô Kyirong bên bờ sông Yarlung Tsangpo, còn gọi là sông Brahmaputra, chảy từ rặng Hy Mã Lạp Sơn xuyên Tây Tạng
Tâm tình của người con dân Việt Nam dù ở xa quê hương nhưng lòng lúc nào cũng lo lắng cho vận mệnh dân tộc. Dù đất nước đang bị Chủ nghĩa Cộng sản cai trị với nạn độc tài tham nhũng vả nguy cơ trở thành thuộc địa của Tàu một lần nữa, nhưng lòng vẫn mơ ước về tương lai dân tộc ngời sáng.
Thủa ấy, một trong những ca khúc ưa thích là bài “Qua Cơn Mê”, đài phát thanh cho nghe hàng ngày, thấy hay, lời ca giản dị, ước mong sau chiến tranh, thanh bình tôi về lại với người yêu, thăm từng con đường đất nước, theo các em học hành như xưa đã bỏ lỡ…
Tuyển tập nhạc "DUYÊN", Trần Kim Bằng với những sáng tác mới đóng góp cho âm nhạc Việt Nam, ngoài tình ca, còn có những ca khúc về quê hương đất nước, gửi gấm tâm tình chung của người Việt xa xứ viết cho quê mẹ.
Đại dịch vi khuẩn corona đã làm mọi thứ đảo lộn. Từ những sinh hoạt thường ngày của cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội đến những hoạt động trong các ngành nghề chuyên môn đòi hỏi đến sự tiếp xúc gần sát, tất cả đều bị hạn chế, ngưng trệ và khi bắt đầu trở lại thì mọi thứ cũng phải đổi thay. Lãnh vực nghệ thuật giải trí cũng chịu chung số phận. Sau nhiều tháng ngưng hoạt động vì đại dịch, các hoạt động đóng phim và truyền hình đang bắt đầu trở lại, nhưng với một kỷ nguyên mới, theo ký giả và nhà viết kịch bản phim/Truyền Hình Beth Webb cho biết trong bài nghiên cứu của bà được đăng trên mục Văn Hóa của trang mạng Đài BBC tiếng Anh hôm 23 tháng 8 năm 2020. Kể từ khi chính phủ Anh bật đèn xanh cho sự hoạt động của truyền hình và phim theo các biện pháp an toàn mới hạn chế vào tháng 6, việc sản xuất đã từ từ hoạt động trở lại. Nhưng đối với sự tái hoạt động của các lãnh vực này thì phải tuân theo các hướng dẫn an toàn mới, họ đã phải tự điều chỉnh lại cách họ tiếp cận vai trò của họ.
Ngày giờ: 8 tháng 8 đến 30 tháng 9, 2020. Khai mạc tại www.phenomenologyofhope.com lúc 7 PM ngày 8 tháng 8. Cuộc triển lãm “Phenomenology of Hope” do 3 họa sĩ đứng ra tổ chức: Eli Joteva, Nguyễn Bảo Khang và Kio Griffith, tại trang nhà của Supercollider. Supercollider tọa lạc trong Beacon Arts Building ở Los Angeles, tổ chức chuyên về nghệ thuật đương đại với sự cộng hưởng của khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật.
Regis Philbin, là người điều hợp chương trình nổi tiếng “Live!” và chương trình “Who Wants to Be a Millionaire,” đã qua đời hôm 24 tháng 7 năm 2020, hưởng thọ 88 tuổi, theo bản tin của báo Huff Post cho biết hôm 25 tháng 7. “Chúng tôi đau buồn vô hạn để chia xẻ rằng Regis Philbin yêu dấu của chúng tôi đã từ giã cuộc đời một cách tự nhiên, một tháng trước ngày sinh nhật thứ 89 của ông,” theo thông báo từ gia đình gửi tới báo People hôm Thứ bảy.
Ann Phong là một họa sĩ với nét cọ thi vị, thời điểm gần đây trong cuộc hành trình hội họa chung, chị sử dụng chất liệu phế thải để thể hiện những ý tưởng mà chị mong được chia sẻ với chúng ta trong cuộc sống. Những tác phẩm trừu tượng rất đạt của chị chuyển hóa thành diễn ngôn khi những bức tranh đó được những mảnh vụn và vật liệu phế thải ghép vào như một nghệ thuật cắt dán (collage).
Rembrandt Harmenszoon van Rijn sinh ngày 15 tháng 7 năm 1606 tại Hòa Lan.
Ban ca nhạc Bình-Minh được thành lập vào giữa thập niên 50 của thế kỷ XX. Ngày Đài Phát Thanh Nha-Trang được khánh thành, trong khuôn viên Tòa Tỉnh, ban Ca Nhạc Bình-Minh đã góp mặt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.