Hôm nay,  

Đọc Thơ Nguyễn Hàn Chung: Mót Chữ Trong Kinh

2/7/202000:00:00(View: 4619)

bia sach Nguyen Han Chung_Mot chu trong kinh



Trong khi nhiều bạn vẫn còn đọc đi đọc lại nhiều bài thơ của Nguyễn Hàn Chung trong thi tập Lục Bát Tản Thần (2018), thi sĩ đã bắt đầu ấn hành tập thơ mới và phát hành trên mạng Lulu.

Trong khi nhan đề thi tập năm 2018 nghe rất là vang dội giỡn cợt – bạn thử đọc rất chậm từng chữ “Lục Bát Tản Thần” sẽ nghe khúc khích tiếng cười thi sĩ – thì thi tập mới có nhan đề rất mực nghiêm trang, “Mót Chữ Trong Kinh,” dù độc giả đọc cách nào đi nữa, như đọc xuôi rồi đọc ngược, cũng sẽ nghe rất mực nghiêm trang. Như dường đây là chuyện của nhà chùa, hay có nghịch lắm (nếu bạn nhớ tới kiểu thi sĩ Nguyễn Hàn Chung ưa bỡn cợt) thì cũng có thể là những mối tình có bối cảnh sân chùa. Vậy mà không phải.

Không phải. Kinh đây không hề có nghĩa kinh điển hay đạo học gì. Kinh chỉ đơn giản là kinh, và muốn hiểu sao cũng được, nhưng không mang nghĩa tôn giáo chi cả.

Nhà văn Hồ Đình Nghiêm trong bài viết dùng làm Bạt cho thi tập “Mót chữ trong kinh” nhận định:

“Người đọc bắt đầu sinh nghi. Kinh gì vậy cà? Cứu khổ? Không. Cứu nạn? Không. Kinh tụng về tình yêu chăng? E là vậy. Vì hơn ai cả, nhà thơ Nguyễn Hàn Chung là người thiết tha yêu, mê man yêu, đắm đuối yêu. Ngây dại. Một sự mù loà gần như giả bộ, gần như bỡn cợt.”

Có thể đúng là kinh tụng về tình yêu, như nhà văn họ Hồ nhận định. Bởi vì, khi Nguyễn Hàn Chung viết về chùa chiền, sư ni thì đều mang lời giỡn mà vui, nghiêm túc chi hề…

Thí dụ, như trong bài thơ nhan đề “nghe kinh” thi sĩ cho rằng nhà chùa bây giờ nặng nợ trần ai (may quá, chưa phải là nợ tình):

lên chùa cung thỉnh thiền sư
giảng kinh cứu khổ tiêu trừ tam tai
dường như nặng nợ trần ai
nên nghe kinh giống nghe đài phát thanh

(mót chữ trong kinh - trang 74)

Nhưng tới như trong bài thơ nhan đề “phải đâu?” Nguyễn Hàn Chung đã sử dụng ngôn ngữ giễu cợt, trong một cách Phật Tử thường cho là bất nhã. Bài này là 4 câu lục bát:  

anh luôn tương kính quý bà
sao em nỡ buộc tội là: anh không?
chắp tay qua xóm không chồng
phải đâu trọc lóc nâu sòng là sư

(mót chữ trong kinh - trang 126)

Dù vậy, sẽ có những bài thơ sẽ làm bạn ngậm ngùi bất chợt. Có thể khởi lên những nỗi buồn từ sâu thẳm mà bạn tưởng như khó hàn gắn. Đó là khi Nguyễn Hàn Chung làm thơ về quê hương. Như bài nhan đề “đại lộ sài gòn” như sau:

phải qua mấy biển mấy non
mới lưu vong tới houston huê kỳ
sài gòn hai chữ có chi
mà làm nước mắt ù lì ta rơi

(mót chữ trong kinh - trang 67)

Hay là bài thơ nhan đề “về thăm nhà cũ” trong thi tập, dễ dàng là một số người trong chúng ta ứa nước mắt:   

nằm đêm sùi sụt nhớ quê
về dăm bảy bữa có về mãi đâu
tay rờ nhúm đất mà đau
bụi môn cây khế buồng cau trách người

(mót chữ trong kinh - trang 96)

Nhưng tuyệt vời trong thi tập vẫn là hình bóng các giai nhân. Ngay cả khi nàng có là bóng, nghĩa là ngoài tầm tay, dòng thơ Nguyễn Hàn Chung vẫn thiết tha tranh biện cho hết Kiều lại Vân, vẫn miệt mài ca ngợi bất kể nàng có là Mỵ Nương hay Mỵ Châu (than ôi, thi sĩ không thấy cô nào là bông hồng đỏ như kiểu trong các phim bộ nữ lưu Thượng Hải lên đường kháng Nhật?). Lời thiết tha như trong bài thơ nhan đề “chụp bóng” với thể thơ 4 chữ:

ngồi bên gái đẹp
càng thấy mình già
mà tìm gái xấu 
suốt đời không ra

(mót chữ trong kinh - trang 68)

Hay như bài thơ nhan đề “không tặng hoa cho phụ nữ” thi sĩ Nguyễn Hàn Chung nói rất minh bạch rằng chỉ vì trân trọng nàng, cho nên không muốn tặng hoa, vì sợ có khi hoa tàn (hay sợ nếp nhăn nàng sẽ lộ nơi mi mắt?). Tình si như chàng hiển nhiên rất mực là tuyệt vời thượng thừa.

tôi từng từ chối tặng hoa
biết khi tàn sẽ xót xa muôn vàn
thà tôi tặng chiếc lá vàng
mốt mai dẫu có tan hàng nghiêng che

(mót chữ trong kinh - trang 75)

Tại sao chàng sợ tặng hoa như thế? Nhưng thời này là tặng quà cũng được. Vấn đề là tặng quà gì? Có trời biết thực sự các nàng hy vọng nhà thơ tặng quà gì. Thí dụ, như ngày Tình Yêu, thi sĩ Nguyễn Hàn Chung suy nghĩ tặng quà gì cho nàng? Vậy mà, hình như có lúc, thi sĩ chỉ muốn nàng luôn luôn xa lìa mọi thứ văn minh, như bài thơ “em thành văn minh” ghi như sau:

nhớ em hồi nhỏ chơi thân
tắm sông tắm giếng truồng trần giỡn anh
ai đời cái bọn lưu manh
đem quần lót biến em thành văn minh

(mót chữ trong kinh - trang 77)

Thế rồi những khi buồn thê thảm với cuộc tình gian nan, khi các con số lung tung hiện ra trong cõi tình… Bài thơ nhan đề “đếm người tình” của Nguyễn Hàn Chung viết rất mực tỉnh queo như sau:

không đau khổ vì em đâu cô nhỏ
anh cù lần chỉ biết ngủ ăn chơi
chỉ có lúc nhớ em ngồi bó rọ
đếm người tình còn lại mấy mà thôi
 
 (mót chữ trong kinh - trang 172)

Và rồi những lần chàng thích thú khi kể lại trong thơ đã nhiều lần ngộ sát môi nàng, khi đó nàng (hay chàng? hay cả hai?) lúng túng niệm lời kinh và lo sợ sẽ bị nghiệp xô rơi vào ngục, như qua bài thơ “ngộ sát” ghi nhận:

mỗi lần ngộ sát đôi môi
của em ta niệm liên hồi nam mô
sắc không lú lẫn hồ đồ
sợ tu chín kiếp cũng vô a tỳ

(mót chữ trong kinh - trang 12)

Tuy nhiên, không chỉ là em nhà lành, thi sĩ cũng có lúc lặng lẽ đi giang hồ và nhìn ngắm những nàng múa cột. Lúc này hình như Nguyễn Hàn Chung không thấy tội lỗi gì… vì chợt nhớ một thời thơ mộng với nàng hớ hênh, như qua bài “xem múa cột” sau đây:

em điệu nghệ tưởng rớt ra
tôi mở mắt không phải là mắt tôi
mắt tôi nhắm đã lâu rồi
từ khi váy rách em ngồi lặt rau

(mót chữ trong kinh - trang 14)

Nhưng không phải lúc nào thi sĩ cũng nghĩ tới trâm cài tóc rối và má đỏ môi hồng… Đó là khi chàng nghiêm túc nhìn lại đời thơ của mình, như trong bài “siết chữ” Nguyễn Hàn Chung tâm sự về một nghiệp lực thi ca… Trời ạ, không thảnh thơi đâu:

còn thở là còn siết
không cho chữ thảnh thơi
nhai nhá chớ không nuốt 
bắt nhả ra thành lời

(mót chữ trong kinh - trang 7)

Tuy nhiên, có phải làm thơ là nấu lên một nồi cháo, trong đó sẽ là chữ và ý, vần và âm, truyền thống cổ xưa nấu chung với thơ cách tân hiện đại? Bài thơ nhan đề “canh lòng thả” của Nguyễn Hàn Chung gợi lên một hình ảnh nồi lẩu thi ca:

thả bác học với bình dân
trộn mòn sáo với cách tân khuấy rồi
bắc lên lửa tốt nước sôi
cho lòng ai nhuyễn nhừ rồi húp ngon.

(mót chữ trong kinh - trang 23)

Thơ Nguyễn Hàn Chung như thế đấy, có thương nhớ quê nhà, có lãng mạn dịu dàng với tình nhân, có ỡn cợt tha hồ chữ nghĩa… nhưng trong tận cùng là sống chết không rời với thơ, khi chữ không đơn giản được chép xuống mà là nhai chữ ngấu nghiến cho hả họng siết rên, thơ đã được nấu cho nhuyễn nhừ để húp vào là ngấm vào hiển lộ đầy chữ trên cả chân tay xương thịt gân da.

Thi tập “mót chữ trong kinh” với 244 bài thơ của Nguyễn Hàn Chung dày 202 trang, do Mở nguồn xuất bản 2020, với Hồ Đình Nghiêm viết Lời Bạt, lưu hành trên mạng Lulu.com.

Nhà văn Hồ Đình Nghiêm ghi nhận trong Bạt thi tập “mót chữ trong kinh” của Nguyễn Hàn Chung với những hình ảnh thơ mộng như đơn độc xuống núi, khách điếm tửu lần, hay như ngựa hý dặm dài… trích như sau:

Khi nhắc tên Nguyễn Hàn Chung. Chẳng còn ai xa lạ với danh xưng này. Anh hiện ra, khoác áo thi nhân đi trên con đường tự chọn. Thoạt đầu là lữ thứ đơn độc xuống núi, rời khách điếm tửu lầu chẳng mấy lâu thì cớ sự đã thôi còn nguyên trạng. Ngựa hý dặm dài, đã có không ít người lao xao đang thúc vó câu sau bóng chữ anh đánh rơi đâu đó. Hình ảnh một nhà thơ, hãy nên khởi đi bằng lối ví von đó. Rõ nghĩa hơn, người mang tên Nguyễn Hàn Chung đã gây nên tiếng vang từ độ…

…Thơ vốn ngắn, có người đang muốn làm ngắn, muốn giam giữ thơ bằng hình thức chỉ bốn câu thôi. Không thể 5, chẳng cho 6, đừng nên 7, 8… Dạ thưa, người đó là nhà thơ Nguyễn Hàn Chung. Thi nhơn vừa chọn hơn trăm bài, gom lại, làm cho chúng cái giấy khai sinh bằng tên gọi “mót chữ trong kinh”. Bốn chữ này cũng là thứ cầu kỳ trong giản đơn. Chữ mót đã hay mà kinh là đại diện cho những lời răn thậm nghiêm túc. Nhà thơ mót được gì?” (ngưng trích)

Nếu bạn để ý, sẽ thấy trong thơ Nguyễn Hàn Chung rất nhiều bài lục bát. Phải chăng đó là ngôn ngữ quê hương rất mực, và lục bát là phần lớn ngôn ngữ anh?

Nhà thơ Luân Hoán trên trang web riêng, khi nhận định về thi tập Lục Bát Tản Thần (2018) của Nguyễn Hàn Chung đã chú ý về điểm này, trích:

Với thể loại lục bát, xưa nay tôi đồng tình với nhận xét "dễ làm, khó hay." Nay tôi bổ túc, thơ lục bát ai cũng làm được và bất cứ ai cũng có vài cặp xuất thần thú vị.

Nhà thơ Nguyễn Hàn Chung, thành danh từ các thi phẩm: Tìm Tôi Trong Bóng (1999), Nói Hộ Phù Du (2002), Nghịch Lưu Của Tuổi (2011), Dự Cảm Rời (2016), Lục Bát Tản Thần (2018) và 3 cuốn sách khác, in chung. Lục bát là một ngón quen tay rất xuất sắc của anh.

Lục bát khác nhau, và nói theo kiểu túc cầu "có đẳng cấp" chỉ ở chỗ sắp xếp vị trí của từ ngữ. Cũng chỉ trong 14 chữ giống nhau, tùy theo sự xáo trộn sắp xếp, 6 trên 8 thành thơ hay không, bên cạnh đó dĩ nhiên phải có tứ thơ, hình ảnh, màu sắc...

Tôi không có ý định bình thơ Nguyễn Hàn Chung, nhưng kết luận gọn bằng câu này: Anh là thi sĩ, thơ hay, thơ đúng nghĩa của nó.”(ngưng trích)

Trong phần sau tập thơ “mót chữ trong kinh” nơi trang 179-182 có chương “Đọc Thơ Nguyễn Hàn Chung,” trong đó thi sĩ họ Nguyễn được một số bạn văn ghi nhận.

--- Trích như sau:

“Mấy trăm bài thơ của Nguyễn Hàn Chung đều dựa trên cốt lõi trào phúng, giễu nhại của tinh thần Việt Nam, ngay bản thân ông cũng được tác giả đem lên trang giấy soi rọi một cách tận tình không ngần ngại…”(DU TỬ LÊ)

“Dù có giấu kỹ những suy tưởng của mình về trời đất về thế thái nhân tình thì cái chất trữ tình trong máu huyết ông, cái nỗi dằn vặt trong hồn ông vẫn còn đó một cách nguyên vẹn khó phai lợt…” (LƯƠNG THƯ TRUNG)

 ‘Tác giả nhà thơ ấy, thời gian gần đây “mê hoặc rất lâu” trên hầu hết diễn đàn văn chương hải ngoại, phóng khoáng trao gửi ra giữa đời một chữ tình… qua nhiều góc cạnh kèm một chút thiệt thà, một chút bông lơn, mà đa phần là rút ruột răn đe…” ( HỒ ĐÌNH NGHIÊM)

 “Đọc thơ Nguyễn Hàn Chung càng đọc càng thấm cái hay ho của ngôn ngữ Việt Nam. Từ cái trong sáng của Nguyễn Du đến cái u minh của NHC thấy thơ ai cũng nằm trong ánh đèn LED” (TRẦN VẤN LỆ)

“Nguyễn Hàn Chung thể hiện cách tân qua cung cách nghiêm nghị pha nghịch ngợm con chữ, ý tình.Ngoài lũy tre , người thân, cõi sau… còn là những hình ảnh dồn nén,tưởng tượng của chốn tình chốn dục, qua cắt ghép số chữ 6-8 qua lên hàng và xuống hàng, nhiều bài khá thành công chứng tỏ tác giả có trăn trở kiếm tìm… hơn 200 bài, một số khá đặc sắc, một số nên đọc lớn tiếng vào buổi bình minh, một số khác chỉ nên đọc khi ở một mình “(NGUYỄN VY KHANH)

”Nguyễn Hàn Chung là nhà thơ nổi tiếng nhiều năm nay từ trong nước ra tới nước ngoài … thơ tình nhưng không u sầu than thở mà có giọng đùa cợt nên dễ được nhiều người đồng cảm ưa thích” (NGUYỄN XUÂN THIỆP)

“Nguyễn Hàn Chung sống trong những trăn trở đó, nên thơ anh khi chạm tới nguồn mạch quê hương ta cảm thấy anh sống lại một cách mãnh liệt nhưng rất hồn nhiên, tiếng lòng của anh bật lên, ta nghe thấy trong sâu thẳm của chữ nghĩa anh dùng, có một tiếng nấc tự đáy lòng phát tiết”(PHAN XUÂN SINH)

“Nguyễn Hàn Chung thuộc nhóm những người chủ trương canh tân đổi mới thi ca từ hình thức đến nội dung. Anh dùng chữ cẩn trọng, cân nhắc, nên trong suốt tập thơ, người đọc không thấy những sáo ngữ, những câu chữ mượt mà, bóng bảy, lê thê, sướt mướt. Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Hàn Chung song hành với đời sống ý tưởng gồ ghề mà anh thể hiện” (QUỲNH THI).

“Thơ của Nguyễn Hàn Chung nặng về tự sự, đi thẳng vào lòng người với một phong cách khó lẫn. Đọc thơ Nguyễn Hàn Chung, có cảm tưởng anh viết chỉ để riêng anh đọc, nên trong thơ anh bộc lộ tất cả, thành thật đến trong veo, nhưng... dẫu thế, thơ là sự đồng cảm, đọc lên lại hóa ra anh viết cho mọi người, nhất là những người, trước thế sự đau đớn ,nhăn nhó như thế này không thể không suy nghĩ, không thể không trăn trở.” (TRẦN KỲ TRUNG)

“Ngôn-ngữ trong thơ NHC: ngôn-ngữ tưởng không bao giờ có thể thấy trong thơ. Nhưng NHC đã dùng nó "tỉnh rụi" bình dị và đi vào lòng người lúc nào không hay. Và nó đã chiếm được cảm tình cuả tôi, tôi đón nhận nó như một người bạn lâu năm, bất ngờ gặp lại. Thơ NHC "lột trần","bóc vỏ" cuộc đời.Thơ cuả anh là cái gì xung quanh chúng ta, nó ngổn-ngang như sỏi đá, nó chồi lên như lau lách nơi bờ bãi, nó thanh thiên bạch nhật như những cao ốc lừng lững trong cuộc sống cuả thế kỷ hôm nay ,nó là trang FB, là cái trạm xăng nơi góc phố, là ly cà-phê buổi sớm, là điếu thuốc đầu ngaỳ, nó mang theo những hoài niệm, nỗi nhớ quê nhà, nó mộc-mạc hiền lành như ruộng luá, bờ tre” (NGHIÊN LONG- TRỌNG NGHĨA)

“Thơ Nguyễn Hàn Chung thấy vần điệu gần gũi mà ý tứ thăm thẳm, lắt léo…Đọc cách này lóe ra hiểu cách khác nhưng dù đi bằng cách nào đi nữa thì con đường đến thơ ông cũng độc đạo. Đó là con đường đầy cảm thông và yêu thương…” (DƯƠNG DIÊN HỒNG)

“Đọc thơ Nguyễn Hàn Chung đã thấy anh ở một nơi rất xa những tự sự buồn vui yêu thương tâm cảm như lời nói ra …chỉ có thơ là còn lại…” (HUỲNH LÊ NHẬT TẤN)

“Tôi khám phá trong anh khát vọng yêu thương mãnh liệt, yêu thương thân phận con người phải quay cuồng giữa cõi nhân sinh hỗn loạn, yêu đến độ đụng vào đâu cũng bục ra cả khối xót xa, trăn trở, ray rứt…” (NGÔ THỊ MỸ LỆ)

“Nhịp thơ hổn hển gấp gáp mà mộng mị đìu hiu. Thi ý vướng mắc trong hư huyễn đời người, nên dễ gì mà không đau. Điệp từ ngữ - cú pháp, cách ngắt câu xuống dòng bất thường lại là ưu điểm hay gặp trong tập thơ. Kệ đi! Miễn nhà thơ nỗ lực làm mới thi pháp, cách tân thể điệu để tránh sa vào lối mòn là đã hết lòng với nghiệp thơ, với bản sắc văn hóa Việt.” (NGUYỄN THOẠI VY)

“Nguyễn Hàn Chung, một ngòi bút tài hoa đã khắc họa một cung bậc tình cảm tinh tế trong thiên hình vạn trạng yêu-nhớ-hận-quên của cõi đời này.” (TRẦN HẠ VY)

--- (ngưng trích)

Tiểu sử sơ lược của Nguyễn Hàn Chung nơi bìa sau, viết như sau.

Các bút hiệu khác: Nguyễn Phong Hàn, Nguyễn Đức Mù Sương. Sinh quán Điện Bàn, Quảng Nam. Định cư ở Hoa Kỳ từ 2006. Các tác phẩm thơ đã xuất bản: Tìm Tôi Trong Bóng (1999), Nói Hộ Phù Du (2002), Nghịch Lưu Của Tuổi (2011), Dự Cảm Rời (2016), Lục Bát Tản Thần (2018). Mót Chữ Trong Kinh(2019). 

Thơ in chung: 40 năm thơ hải ngoại (2017), Hư Ảo Tôi (2018), 43 Năm Văn Học VN Hải Ngoại (2018), Tác Giả Việt Nam (2018), Thơ Việt Đầu Thế Kỷ 21 (2018), Soi Bóng Cội Nguồn (2019).

Đã cộng tác với  hầu hết các báo và tạp chí trong và ngoài nước.

Độc giả có thể tìm mua thi tập “Mót chữ trong thơ” bằng cách vào lulu.com và gõ chữ “mot chu trong tho”…

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tháng 11 năm 1990, từ miền Đông Hoa Kỳ về Nam California nắng ấm, anh chị Thái Tú Hạp - Ái Cầm ghé thăm và tặng mấy món quà, trong đó có tập thơ Miền Yêu Dấu Phương Đông. Anh chia sẻ, bây giờ xa cố hương, nơi chốn mịt mù… khi nào nhớ thì đọc. Vài tuần sau tôi viết cảm nghĩ về tập thơ nầy: Thái Tú Hạp & Miền Yêu Dấu Phương Đông cho tờ Saigon Times của anh.
Đó là lời bộc bạch chân thật của một người Phật tử tại gia đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong đoạn thơ trên, chúng ta thấy thi sĩ Tâm Tấn trong cõi sâu xa của tâm thức dường như không thể quên ước nguyện từ vô lượng kiếp muốn đáp chuyến đò từ bờ bên này sinh tử luân hồi sang bên kia bờ giải thoát niết bàn
Tác phẩm Vòng Xoáy Cuộc Đời, tuyển tập văn và cũng là những lời tâm sự của Thầy Thích Nhuận Hùng, vừa hoàn tất xong và chuẩn bị phát hành. Nói “tâm sự” là nói ra những lời từ trái tim. Tôi biết Thầy Thích Nhuận Hùng nhiều năm, Thầy đơn sơ và chất phác y hệt như những gì Thầy viết ra. Không phải như một nhà văn (Thầy không có ý trở thành một nhà văn), Thầy chỉ viết lên những gì Thầy nhìn thấy, nghe được, cảm thọ, nhận biết và suy nghĩ về những gì chung quanh Thầy.
Chất thơ trong các Lá Thư Tòa Soạn bàng bạc trong từng dòng chữ. Văn xuôi nhưng là thơ, là tiếng nói thiết tha của Vĩnh Hảo, một nhà văn cư sĩ đang mang chánh pháp vào đời. Chất thơ thường hiện rõ trong những đoạn văn đầu trong Lá Thư Tòa Soạn. Vĩnh Hảo viết thư theo kỹ thuật “Tiên tả cảnh, hậu thuyết kinh” --- nơi đó, vào đề bằng những chuyện lá mùa thu rơi với hoa mùa xuân tàn, rồi nói chuyện vô thường, vô ngã;
Tất cả các bài thơ trong tập “Đêm Vang Hình Tiếng Chuông” đều trình bày tương tự và có khi biến thể nhiều câu hơn, nhưng cũng ngắt dòng như thế.
Thomas Piketty, nhà kinh tế học Pháp, vừa cho ra mắt tác phẩm “Capital and Ideology” (Tư bản và Ý thức hệ). Qua tác phẩm mới nhất này, Piketty báo động về tình trạng bất bình đẳng tài sản trong toàn cầu hiện nay và đề ra việc cải cách về thuế tài sản, thu nhập và hợp tác quốc tế là một đối sách. Trên cơ sở tái tạo công bình xã hội, Piketty hy vọng, chủ nghĩa xã hội sẽ mang lại ý nghĩa đóng góp tích cực hơn cho việc xây dựng tương lai.
Tình thân không giúp chúng ta có thể hiểu hết mọi chuyện về nhau. Đặc biệt là khi khảo sát về các lộ trình tâm có thể dẫn tới những dòng thơ. Có phải thơ là thuần cảm hứng từ những kiếp xưa rơi xuống, hay là từ một chuỗi lý luận phức tạp? Khế Iêm là một trong vài nhà thơ, theo tôi nhận thấy, có lộ trình tâm rất mực phức tạp, đầy những dây nhợ rắc rối y hệt như các dàn phóng phi thuyền vũ trụ của NASA. Nhưng hôm nay, bài này sẽ chọn một phương diện khác của Khế Iêm để suy nghĩ, tập truyện “Lời Của Quá Khứ” (LCQK), một ấn phẩm năm 2020, phiên bản mới của nhà xuất bản Văn Mới 1996. Giao tình của tôi với Khế Iêm có lẽ cũng đã gần 3 thập niên, ban đầu là qua nhà văn Mai Thảo. Là những người mê chữ gặp nhau, nhưng mỗi người là một thế giới riêng. Ngay cả nhiêu năm trước, những khi ngồi với Khế Iêm nơi quán cà phê góc đường Westminster/Euclid ở Santa Ana, niềm vui của tôi là được nghe kể chuyện sách vở, thơ ca… Tôi không phải là học giả nên không ưa suy luận, bản thân chỉ là một nhà
Đây là cuốn sách viết bằng song ngữ Anh-Việt của cư sĩ Nguyên Giác. Sách dày 319 trang vừa được Ananda Viet Foundation (Nam California) xuất bản. Cư sĩ Nguyên Giác tu học với một số thiền sư tiền bối nổi tiếng trước 1975 như Thích Tịch Chiếu, Thích Thường Chiếu, Thích Thiền Tâm và Thích Tài Quang. Cư sĩ Nguyên Giác say mê Thiền, nghiên cứu về Thiền, viết về Thiền và sống chết với Thiền. Ông đã xuất bản tám cuốn sách về Thiền. Nay ở tuổi 68, ông viết cuốn này vì sợ rồi đây sức khỏe suy yếu, không còn khả năng viết nữa. Tuy nhiên ước mơ lớn vẫn là để cho các nhà nghiên cứu ngoại quốc muốn tìm hiểu về Phật Giáo Việt Nam, nhất là Thiền, có tài liệu tham khảo vì hiện nay Anh Ngữ là ngôn ngữ phổ biến khắp thế giới.
Từ lúc nhận sách đem về nhà, trong đầu tôi dường như có cái gì đó còn vướng vướng. Cầm cuốn sách, lật qua lật lại, lật tới lật lui. Vẫn chưa mở sách ra để đọc. Bổng nhiên mắt tôi dừng lại ở cái tựa đề sách “Gặp Gỡ Với Định Mệnh.” À, thì ra chính cái tựa đề này làm cho mình bị khựng lại. Rồi tôi thắc mắc về tựa đề cuốn sách “Gặp Gỡ Với Định Mệnh.” Định mệnh là định mệnh gì? Định mệnh của ai, của dịch giả họ Trịnh hay của tác giả bài văn tuyển dịch, hay của tất cả mọi người? Tôi có nằm trong cái định mệnh đó? Có cái gì đó tương quan tương duyên giữa “định mệnh” trong cuốn sách ngày xưa với “định mệnh” bất ổn của xã hội ngày nay? Chính những thắc mắc đó đã xô đẩy tôi bước vào cuốn sách và đi tìm câu trả lời. Tìm trong mục lục, tôi thấy có bài “Gặp Gỡ Với Định Mệnh” của nhà văn người Mỹ Philip Roth. Tôi vội vàng lật qua trang 47. Và tôi bắt đầu đọc một mạch không ngừng cho đến hết. Dịch giả Trịnh Y Thư rất tử tế, anh đã giới thiệu một cách trang trọng tác giả
“Chúng ta đến xứ sở này xa lạ / ra đi chưa hết lạ / nhưng không bao giờ thôi yêu mến / mặt hồ đại dương / căn nhà chở che hạnh phúc / lối mòn nhỏ ven rừng con ta bước tiên khởi tự do. / Đây là nơi chúng ta hàn gắn mình / Như thợ giày khâu vết thương há miệng / Sau đường dài ngập máu / sau đường dài ngập phân / sau chợ chiều cân xác chết chiến tranh / một triệu tiếng chuông không mua hết oan hồn. / Đây là nơi chúng ta sống đàng hoàng / và chết vào buổi chiều có cánh / bay về một xứ sở đã xa.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.