Hôm nay,  

Đọc ‘Hoa Cỏ Bên Đường’ của nhà báo Kiều Mỹ Duyên

15/05/202114:39:00(Xem: 3963)
blank

  

Đọc ‘Hoa Cỏ Bên Đường’ của nhà báo Kiều Mỹ Duyên
 

Phan Tấn Hải
 

Không kể tới tuyển tập Chinh Chiến Điêu Linh, một tập bút ký xa xưa gồm nhiều bài có chủ đề một thời Chiến Tranh VN của phóng viên chiến trường Kiều Mỹ Duyên, tôi có nhiều cơ duyên đọc nhiều bài viết ở hải ngoại gần đây của người tôi quen gọi là chị An Nguyễn Kiều Mỹ Duyên, nhà báo của một thế hệ đã vào nghề phóng viên trước tôi nhiều thập niên. Những bài viết của chị gần đây thường là các đề tài bám sát đời thường. Thế rồi chị gom lại thành một tuyển tập có tên là Hoa Cỏ Bên Đường. Nơi đây, tôi chỉ viết về một số ghi nhận rời khi đọc tuyển tập này của nhà báo Kiều Mỹ Duyên, cũng là một người chị về nhiều phương diện.
 

Điều ghi nhận đầu tiên nơi chị là một thái độ tôn trọng các nhà tu bất kể dị biệt tôn giáo. Cái hay nơi chị là sự hồn nhiên, tôn kính rất mực thuần thành bất kể các tôn giáo khác nhau trong cộng đồng. Có thể đó là nhờ bản năng phụ nữ? Tôi không biết, nhưng hiển nhiên, chị là Phật Tử, điểm hay của chị là đã tiếp cận tất cả các tu sĩ tôn giáo khác như dường không hề dị biệt.
 

Điều này thực ra tôi đã học từ khi còn thơ ấu. Ba tôi dạy rằng đi qua chùa, nhà thờ, đền, miếu, thì phải cúi chào để bày tỏ lòng tôn kính, chớ có khởi tâm xúc phạm. Nhưng bản thân tôi không hoàn toàn hòa hài tự nhiên với nhiều tôn giáo khác, tuy rằng tôi luôn luôn chắp tay chào mỗi khi gặp linh mục, mục sư, giáo sĩ…

blank
Tôi đã kết thân, và đã giúp tận lực để in sách, rồi tìm người dịch sách cho Thầy Phó Tế Nguyễn Mạnh San, một người tôi rất mực tôn kính vì đã hoạt động trong cương vị luật sư hơn 2 thập niên trong hệ thống nhà tù Oklahoma. Tôi cũng đã có giao tình rất thân với Mục sư Nguyễn Quang Minh, một huynh trưởng hướng đạo và một thời là người thông dịch tòa án tại Quận Cam. Tôi vẫn còn nhớ cách Mục sư Nguyễn Quang Minh yêu cầu một thanh niên đang trong diện quản chế mỗi tuần hay mỗi hai tuần tới gặp mục sư ở một quán cà phê góc đường Bolsa/Magnolia, chỉ để uống cà phê chừng nửa giờ, rồi Mục sư bảo anh đang trong diện quản chế đó đi đâu gần đó, làm gì chút đỉnh, tới trưa thì cấp giấy là đã hoạt động cộng đồng vài giờ chi đó để tòa án sẽ tính điểm. Những lúc đó, có khi tôi chỉ ngồi nói chuyện với Mục sư Minh thôi, có khi tôi chụp hình rồi về tòa soạn Việt Báo viết một bản tin về tuổi trẻ Việt sinh hoạt cộng đồng theo quy định quản chế. Tôi cũng là nhà báo đầu tiên đăng các lời kêu gọi từ thiện của Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, ngươi từng bị đốt nhà thờ; và trong một lần Mục sư Bảo từ VN ra, khi phi cơ ghé trạm Nam Hàn, nhằm lúc World Cup, Mục sư đã mua một quả bóng túc cầu có huy hiệu đặc biệt của sự kiện đó, về trao cho tôi, nói là Mục sư chỉ duy nhất mua 1 thứ về, và chỉ nghĩ tới tôi thôi, xem như “mua banh World Cup để tặng cho cậu con của anh Hải đấy.” Dù vậy, tôi vẫn thấy luôn luôn có một khoảng cách giữa tôi và các tu sĩ tôn giáo khác. Nhiều vị tu sĩ nói rằng lúc cầu nguyện, vẫn cầu nguyện cho tôi. Như Thầy Phó Tế Nguyễn Mạnh San nói, “Tôi luôn luôn cầu nguyện hàng ngày cho ông Phan Tấn Hải đấy. Ông Hải giúp tôi nhiều quá, nên tôi nghĩ tới ông hoài.” Tôi im lặng, lúng túng, vì bản thân mình là kiểu Phật Tử bên lề, không có thói quen cầu nguyện dù là cho mình hay cho người. Tôi chỉ khởi tâm từ để ước muốn bình an cho mọi người, nhưng không thực sự là cầu nguyện cụ thể. Có vẻ như mình ăn gian, vì họ cầu nguyện cho mình, mà mình không cầu nguyện cho họ. Nội mình lo canh giữ tâm mình cho đừng sai phạm cũng là hết ngày giờ rồi, hơi đâu mà cầu nguyện, nhưng chẳng hiểu sao chưa bao giờ tôi dám nói minh bạch. Chính những khi đó mới thấy mình với người là khác.
 blank

 
Nhưng chị Kiều Mỹ Duyên thì hòa đồng rất mực tự nhiên. Như trong bài Tạ Ơn đầu sách Hoa Cỏ Bên Đường, câu cuối chị viết là: “Cầu xin Thượng Đế ban phúc lành cho quý ân nhân.” Nghe rất tự nhiên, và sẽ làm biết bao nhiêu người hài lòng. Thực ra trong xã hội Hoa Kỳ, câu nói đó là tự nhiên, vì đi đâu cũng gặp chữ “God bless.” Dù vậy, tôi chưa bao giờ nói được hai chữ đó. Hóa ra, tôi mới thấy rằng tự bản thân mình không tự nhiên, khi thắc mắc về chữ nghĩa phức tạp.
 

 Nhà báo Kiều Mỹ Duyên là người có nhiều cơ duyên lớn trong đời. Nếu bạn ghé thăm văn phòng của chị ở khu thương mại nơi góc đường Westminster & Euclid, bạn sẽ thấy trên tường là một tấm hình chị đứng chụp chung với Đức Đạt Lai Lạt Ma đời 14. Đó là một hy hữu, cực kỳ hiếm có.
 

Rồi những cơ duyên khác của một nhà báo --- đúng ra, chị còn là một người hoạt động cộng đồng, và đó là một ưu thế khi so với một nhà báo bình thường như tôi --- chị Kiều Mỹ Duyên cũng từng có những cơ hội rất hiếm, như đã phỏng vấn Đức Hồng Y Francis George, khi Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ họp đại hội ở khách sạn Bilmore, Los Angeles, các ngày 15, 16 và 17 tháng 6/2006. Cũng dịp này, chị phỏng vấn Giám Mục William S. Skylstad, về những vấn đề rất trọng đại, như: Sự phát triển Thiên Chúa Giáo ở Hoa Kỳ trong những năm sắp tới, hay là Chủ tịch hội đồng giám mục Hoa Kỳ có ý định đến thăm Việt Nam hay không, và nếu có là khi nào. Để nhắc về tầm quan trọng: Đức Hồng Y Francis George là 1 trong 15 Giám Mục từng nằm trong danh sách được xem là ứng viên vào chức Giáo Hoàng trong đại hội mật nghị “2005 Papal Conclave” ở Vatican để bầu chọn tân Giáo Hoàng sau khi Đức Giáo Hoàng John Paul II băng hà tháng 4/2005.
 

Bản thân tôi ở trong nghề báo cũng lâu, chứng kiến nhiều sự kiện ở Quận Cam, nhưng kỷ niệm về phỏng vấn các lãnh tụ thì hoàn toàn thiếu vắng. Có thể, bản thân tôi ưa phỏng vấn các nhà thơ, nhà văn bên lề xã hội hơn. Trong khi đó, chị Kiều Mỹ Duyên có những cơ duyên lớn hơn.
 

Nhà báo Kiều Mỹ Duyên viết nơi trang 85-86 của sách Hoa Cỏ Bên Đường, trích:

"Nhờ làm nghề truyền thông mà tôi được nhiều cơ hội gặp mọi người, từ anh lính đến Đại tướng, từ người dân đến Tổng Thống, từ một người giáo dân đến Đức Cha chủ tịch Hội Đồng giám mục Hoa Kỳ, Đức Cha chủ tịch Hội Đồng giám mục Việt Nam. Đi đến đâu, tôi cũng được giúp đỡ một cách tận tình để được phỏng vấn.

Tôi phỏng vấn nhiều nhân vật quan trọng trên thế giới và tôi được cử làm phóng sự, thuyết trình, gồm có: Tổng Thống Gerald Rudolph Ford, bộ trưởng Elizabeth Dole, Tổng Thống Nga Mikhail Sergeyevich Gorbachev. Tổng Thống Nga nói sở dĩ nước Nga có tự do, nhờ ông và Tổng Thống George W. Bush làm việc ròng rã suốt 10 năm, thường họp ở Canada. Ông cho biết ông tham gia chánh trị lúc 18 tuổi nhưng chỉ một lần thất bại. Ông bị bắt giam gần bờ biển, chiều chiều nghe tiếng sóng vỗ và nhìn lên núi, ông nhất định phải trở lại chính trường và phải làm Tổng Thống. Khuôn mặt ông rất lạnh, ông có bằng Tiến sĩ toán, cô con gái đi theo ông khuôn mặt cũng rất lạnh. Tôi gặp Tổng Thống Nga hai lần, một lần ở Anaheim. Truyền thông có chỗ ngồi riêng, gần sân khấu, an ninh cho từng người truyền thông rất kỹ, cẩn thận không kém gì lúc tôi gặp Tổng Thống Ronald Reagan ở Anaheim hồi mới sang định cư ở Mỹ, mấy năm đó tôi đang làm báo cho Mỹ."
 
blank

Trong tập bút ký Hoa Cỏ Bên Đường, nhà báo Kiều Mỹ Duyên cũng ghi lại những cơ duyên phỏng vấn quý Thầy Phật Giáo VN, như ngài Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Thiền sư Thích Thanh Từ, Hòa Thượng Giác Nhiên, Thầy Tuệ Sỹ, Hòa Thượng Thích Quảng Thanh, Hòa Thượng Thích Mãn Giác…
 

Trong sách này chị Kiều Mỹ Duyên cũng kể lại một vài chi tiết lịch sử, có thể gây xúc động cho Phật Tử. Thí dụ, như chị kể lại nơi trang 94:

"Học trò của Đại Lão Hòa Thượng Thích Tâm Châu rất giỏi, rất giỏi và hiện nay trụ trì nhiều chùa ở khắp nơi trên thế giới. Có lần, thầy nhờ tôi gửi tiền về cho thầy Tuệ Sỹ. Thầy Tuệ Sỹ rất gầy, gầy không thể tưởng tượng được. Năm 2001, tôi cùng với phái đoàn từ thiện quốc tế dành thì giờ ghé thăm thầy Tuệ Sỹ. Chúng tôi đang ngồi quanh thầy thì một cụ bà, sau này chúng tôi biết bà cụ có người con trai làm trụ trì một ngôi chùa, cụ vừa đến quỳ xuống lạy thầy Tuệ Sỹ. Chúng tôi phải vội vội, vàng vàng tránh xa ra. Phòng khách của thầy Tuệ Sỹ nhỏ xíu, thầy ra tù về trú ngụ ở chùa Già Lam, Gò Vấp, không có hộ khẩu, không đi mua gạo được."
 
blank

Trong tuyển tập bút ký Hoa Cỏ Bên Đường, nhà báo Kiều Mỹ Duyên còn nhiều bài khác, mang chủ để sinh hoạt cộng đồng, hay khắc họa chân dung nhiều nhân vật --- như viết về Hòa Thượng Thích Quảng Thanh, về Giáo sư võ Aikido Đặng Thông Phong, về phóng viên Phan Trần Mai…
 

Nhà báo Kiều Mỹ Duyên đã trở thành một trụ cột lớn trong cộng đồng qua nhiều hoạt động, trong đó viết sách chỉ là một mảng hoạt động của chị. Gần như là chị có mặt khắp nơi trong cộng đồng. Chị xông xáo làm từ thiện, chị say mê làm đài phát thanh, chị mưu sinh bằng nghề địa ốc, chị tham dự guồng máy đại bồi thẩm đoàn của Quận Cam, và vân vân.
 blank

 
Nói theo một kiểu từng nghe được, thì nhà báo Kiều Mỹ Duyên có mặt trên từng cây số của cộng đồng Việt. Trong đó, tuyển tập bút ký Hoa Cỏ Bên Đường là một dấu mốc của nhà báo Kiều Mỹ Duyên, nơi đó độc giả sẽ nhìn rõ hơn chân dung và hoạt động của một người đã từng là phóng viên trước 1975 và bây giờ thỉnh thoảng làm phóng viên vì muốn đóng góp cho cộng đồng. Hy hữu mới có người như chị. Dễ dàng đoán được rằng tuyển tập bút ký Hoa Cỏ Bên Đường của nhà báo Kiều Mỹ Duyên hẳn là sẽ được cộng đồng đón nhận nồng nhiệt.

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vào thời điểm này, phải chăng thơ đã là món ăn tinh thần lỗi thời, mất hương vị quyến rũ, thua mùi phở hấp dẫn khi đói bụng? Đúng như vậy, có đói mới thèm ăn. Làm sao biết tâm tư của bạn đang đói? Hỏi thử nó có mệt mỏi, có căng thẳng, có phiền muộn chuyện đời, có ghét bỏ người khác? Nếu có, đúng rồi, nó đang đói. Thơ là món ăn tinh thần cổ truyền từ tiền sử. Nếu tiểu thuyết là bữa tiệc, truyện là bữa ăn tối, thì thơ Việt chính là phở. Một món ăn độc đáo cho bất kỳ người Việt nào tại gia hoặc tha hương.
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh.
Nhân vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi (Kundera). Bởi cuối cùng là để vượt ra, vượt qua: một cái đường biên mong manh mà mênh mông đó. Ở đó, Bên kia đường biên “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt (trang 19). Nghĩa là đạt đến vô ngã / non-self (không phải no-self). Cái đường biên đó do chính tác giả tạo ra cho mình và loay hoay tìm lối thoát, càng tìm lối thoát càng bị quấn chặt. Chỉ vượt ra, vượt qua (Gaté, gaté…paragaté…) đường biên khi có được trí Bát nhã (Prajna) thấy được ngũ uẩn giai Không, mới “độ nhất thiết khổ ách”.
Đây là một tác phẩm lịch sử từng giai đoạn của Quân Lực Việt Nam Công Hòa. Nhà biên soạn sử học Hồ Đắc Huân, đã miệt mài trong bao nhiêu năm, cô đọng, trau chuốt, giao tiếp với nhiều nguồn tin tức khác nhau, cộng với hành trình từ bản thân, là chứng nhân lịch sử; đã cho ra mắt một tác phẩm để đời!
Có Tự ngã không? Đức Phật dạy: Có nghiệp được tạo tác, có quả dị thục được lãnh thọ, nhưng không có người tạo tác, không có người lãnh thọ. Phật giáo không cho có cái gọi là Tự ngã, tiểu ngã, đại ngã, linh hồn, nhưng tin có “Nghiệp mang theo” để “trả quả”. Cái gì mang Nghiệp theo? Thần thức tái sinh, luân hồi?
Cuốn Hồi Ký dày khoảng 500 trang, khổ lớn, với phần biên tập và thiết kế sách của Trịnh Y Thư, phần thiết kế bìa của Nina Hòa Bình Lê, và gồm 7 phần chính, ngoài Lời Ngỏ và Kết Từ. Phần I, tác giả nhớ lại thời còn ở Hà Nội trước năm 1954 với bố mẹ và anh chị; Phần II kể về chuyến di cư đầu đời một thân một mình của cô gái 16 tuổi từ Hà Nội vào Sài Gòn, lập gia đình và những cơ duyên đưa đẩy vào ngành nghệ thuật điện ảnh Miền Nam trước năm 1975; Phần III kể chuyện lưu vong ra hải ngoại trong biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, làm người tị nạn Việt Nam đầu tiên tại Canada, với hai bàn tay trắng làm lại cuộc đời và những phấn đấu gian lao cực khổ để bước vào sân khấu điện ảnh lộng lẫy của Hollywood; Phần IV thuật lại những chuyện vinh quang trong sự nghiệp điện ảnh và những buồn vui của bản thân, gia đình, và những mối giao tình với bạn bè trong cuộc sống tại Hoa Kỳ; Phần V kể chuyện “đứng dậy, đứng thẳng, đi tới” sau những lần vấp ngã để trở thành nhà diễn thuyết khắp thế giới,
“Nước hiện cũng ở quanh tôi, quanh anh chị. Nó ở ngay trang sách này mà ta đang đọc. Ở trong màn hình tôi đang nhìn, trong bàn phím máy computer tôi đang gõ, ở trong cái áo cái quần tôi đang mặc, trong bức tranh trên trên tường…, kể cả trong cái đinh đóng trên đó. Tôi không thấy nó vì tôi ít khi chịu khó nhìn kỹ để thấy nó. Nhưng có điều bây giờ tôi biết rất rõ rằng: không có nước thì cái thằng tôi này cũng không có; không có nước thì cũng không có anh, không có chị ngồi đó mà đọc trang sách này. Cái bàn, cái ghế, cái cây, cái đám mây ngoài kia… cũng không tuốt.” (tr. 158) Không chỉ có vậy đâu mà còn nhiều nữa. Văn Công Tuấn, trong tác phẩm “Chớ Quên Mình Là Nước,” đã dẫn người đọc từ chuyện đất và nước trong đời thường, trong khoa học, trong văn chương tới chuyện đất và nước trong lãnh vực quốc gia dân tộc, từ chuyện đất và nước trong triết học với bản thể và diệu dụng của nước, bước sang chuyện lấy cơ duyên đất và nước để nói đến chuyện thực chứng tâm linh để giác ngộ và giải thoát
Tôi cố ý tìm tòi và trích dẫn nhiều ý kiến của Nguyễn Hiến Lê và cảm nhận về từng tác phẩm Nguyễn Hiến Lê của nhiều tác giả khác. Tôi rất mong được cung cấp càng nhiều thông tin, sự kiện, chi tiết liên quan đến tác phẩm càng tốt, để tiện việc tham khảo và nghiên cứu về Nguyễn Hiến Lê.
Kể từ tập thơ Vườn Dĩ Vãng ấn hành năm 1972 của thời trai trẻ phục vụ trong quân ngũ nơi quê nhà cho đến tác phẩm Hồi Sinh thực hiện năm 2020 nhưng vì trục trặc kỹ thuật, ấn hành năm 2021 nơi xứ người, nhà thơ Trần Văn Sơn đã trải qua cuộc hành trình từ những bài thơ xuất hiện trên trang báo ở Sài Gòn vào giữa thập niên 60 cho đến thời điểm ấn hành tuyển tập nầy với thi ca hơn nửa thế kỷ.
Trong tuyển tập “Vằng Vặc Một Mảnh Lòng,” có nhiều bài rất giá trị mà cũng khó tìm, như bài “Lời Giới Thiệu Luận Án Tiến Sĩ Phật Học Đại Học Bihar - Ấn Độ, 1961 Của Tỳ Kheo Thích Minh Châu: So Sánh Kinh Trung A Hàm Chữ Hán và Kinh Trung Bộ Chữ Pali do vị Viện Trưởng, Tân Tòng Lâm Nalanda S. Mookerjee viết vào ngày 23 tháng 3 năm 1964, và Thích Nữ Trí Hải dịch Việt. Hoặc như bài “Huyền Trang Và Công Cuộc Thỉnh Kinh Vô Tiền Khoáng Hậu Của Nhân Loại” của học giả Nguyễn Hiến Lê, và bài “Như Lai Vô Sở Thuyết” của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.