Hôm nay,  

Trần Văn Sơn & Nửa Thế Kỷ Với Hành Trình Thơ

25/09/202118:40:00(Xem: 3293)


“Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu những vần thơ”. 

(Jorge Luis Borges 1899-1986, nhà văn, nhà thơ Argentine)

 

blank


Kể từ tập thơ Vườn Dĩ Vãng ấn hành năm 1972 của thời trai trẻ phục vụ trong quân ngũ nơi quê nhà cho đến tác phẩm Hồi Sinh thực hiện năm 2020 nhưng vì trục trặc kỹ thuật, ấn hành năm 2021 nơi xứ người, nhà thơ Trần Văn Sơn đã trải qua cuộc hành trình từ những bài thơ xuất hiện trên trang báo ở Sài Gòn vào giữa thập niên 60 cho đến thời điểm ấn hành tuyển tập nầy với thi ca hơn nửa thế kỷ.

Tuyển tập thơ văn Hồi Sinh dày 346 trang gồm những bài thơ đã ấn hành trong Vườn Dĩ Vãng (1972), Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa (2009) và những sáng tác sau nầy cùng với những bài viết về bạn thơ. Mở đầu tác phẩm nầy “Thay Lời Tựa” với bài viết của Ngô Nguyên Nghiễm, bạn văn thâm niên từ quê nhà:

“Những tháng giữa năm 1972, tôi mới trực tiếp diện kiến với Trần Văn Sơn, khoảng hai lần, do các nhà thơ Thụy Miên, Nguyễn Lê La Sơn, và sau đó là Phạm Nhã Dự, Trần Phù Thế, tháp tùng đến, giới thiệu và bàn chuyện văn chương, in ấn. Cuối tháng 7/1972 nhà thơ Thụy Miên khốc liệt với tai nạn ở Sóc Trăng, bằng hữu còn quá đau lòng và hoang mang cực độ, nên tôi quên lãng chuyện Trần Văn Sơn và những bàn tính của thi tập đầu tay Vườn Dĩ Vãng ra đời.

Cuối năm 1972, tình cờ tản bộ qua cầu chữ Y sang đường Cao Đạt, chỉ cách tệ xá một khoảng ngắn, chợt thấy Lưu Nhữ Thụy đang mày mò in typo bìa cho thi tập Vườn Dĩ Vãng của Trần Văn Sơn. Thì ra, Trần Văn Sơn giao Lưu Nhữ Thụy ấn hành tập thơ. Nhà in Cao Đạt, chỉ có một máy dập typo, ngoài ra là in lụa, nên tôi lấy tập bản thảo Vườn Dĩ Vãng đọc lại, thơ thật hay, và bay sang nhà in Chính Nguyên nhờ nhà thơ Nghiễm Vy ấn hành. Lúc này, thi phẩm Vườn Dĩ Vãng là tác phẩm thứ 6 của NXB Khai Phá đã được giới thiệu với độc giả, sau tác phẩm của Lâm Chương, Nguyễn Thành Xuân, Hà Thúc Sinh và tôi. Với tài hoa và kỹ thuật điêu luyện, Trần Văn Sơn thành công nhiều ở tập thơ đầu tay…”.

Bài thơ Vườn Dĩ Vãng sáng tác năm 1969 làm tựa đề cho tập thơ đã in trong trang 78 của tuyển tập:

“Một vài lần ghé lại thăm em

Hàng sứ rụng bông vàng trước ngõ

Hồn bâng khuâng bóng dựng quanh thềm

Rêu xanh kín tường xiêu mái đổ…

… Nay ghé thăm tình xưa vườn cũ

Thấy xác xơ không một bóng người    

Tình đã rụng bông vàng trước ngõ

Vườn quạnh hiu một bóng mặt trời”.

Và, bài thơ Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa sáng tác “ngày ra tù Cộng Sản, 1984” cũng là tựa đề cho tập thơ. In nơi trang 91:

“Dẫu không cửa không nhà

Vẫn an nhiên mà sống

Dẫu không rượu không trà

Vẫn hằng đêm nuôi mộng

Một ngày. Một ngày qua

Khốn khó vây quanh ta

Cháo rau ngày hai bữa

Chưa đủ ấm thịt da

… Sáng nay trời thật đẹp

Hương ngào ngạt quanh nhà

Vườn ai vừa mở cửa

Thấp thoáng vài nụ hoa”.

Với tập thơ nầy, Nguyễn Mạnh Trinh với lời kết:

“Đọc thơ Trần Văn Sơn, như nhìn ngắm lại một chân dung của một người bình thường trong thế hệ chúng ta. Đi lính, đi tù, đi Mỹ, những cái đi ấy hình như hầu hết chúng ta đều có chung. Những cái đi khởi từ một cuộc chiến tranh tàn khốc. Trải qua những nhọc nhằn bi thương, có lúc cũng hào sảng luận anh hùng, cũng có lúc giở tỉnh giở điên trong cơn say ngậm ngùi nhìn thế sự, thơ như những phác họa của một thực tế mà bất cứ ai cũng có lúc trải qua. Thành ra, thơ lại là những chia sẻ của những người hiện giờ đang sống đời lưu lạc , đang hụt hơi với chuyện cơm áo xứ người. Có mấy ai bằng lòng với hiện tại, với những gì mình đã có trong tay. Nhưng rồi cũng phải nhận ra một điều. Cuộc đời dù ở đâu và bất cứ ở nơi chốn nào, cũng cần một tấm lòng. 

Trong thơ Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa, quả tôi đã thấp thoáng thấy mình của đám đông trong thế hệ ấy. Làm thơ, có phải là để trung thực và sòng phẳng với đời, để có lúc còn một chút nắng vui tươi, của một vài sợi mây mơ mộng. Qua bao nhiêu ngã đường đã vượt, trải bấy nhiêu cay đắng ở đời, thì có lúc, thơ đã làm gậy chống để giúp đỡ đôi chân trèo lên dốc đứng nhân sinh muôn đời chập chùng trước mặt…”.

Và với, Phan Bá Thụy Dương, cùng nơi chốn và gần gũi với nhau: “Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa là sự thể hiện của những tiếng tơ đồng trầm sâu, truyền cảm. Đó cũng là tiếng lòng đầy ắp chân tình, chân ái của một người làm thơ, coi thơ như lẽ sống, coi bằng hữu như anh em thân thiết, ruột thịt”.

Với tựa đề Hồi Sinh cũng là bài thơ ở trang 23, và trang 5 với chân dung tác giả qua nét ký họa của Vũ Uyên Giang với hai câu thơ: “Hiểu sao thấu ra sao ngày tận tuyệt. Phút hồi sinh tìm chốn cũ quay về”.

Hơn 140 bài thơ, trong đó có Khúc Ngâm Đoạn Trường với 10 bài thơ (từ trang 230 đến trang 239) và truyện thơ gồm 13 trang (240-252) thể thơ lục bát về mẩu chuyện huyền thoại từ Quảng Nam đến Bình Tuy mà tác giả biết được khi phục vụ ở tiểu khu nầy.

Trần Văn Sơn sinh trưởng dưới chân Lầu Ông Hoàng, Phan Thiết, Bình Thuận. Năm 1968 nhập ngụ ở Trường Bộ Binh Thủ Đức, phục vụ tại tiểu khu Gia Định và sau đó thuyên chuyển về Bình Tuy.

Cuộc đời lính chiến được mô tả qua hình ảnh ở đơn vị tác chiến:

“Đêm nằm nghe vượn hú

Ba lô, súng gối đầu

Mắt mở trừng không ngủ

Rừng tiếp rừng âm u

Gió lòn qua kẻ lá

Cuốn tròn trong poncho

Rét từng cơn mệt lả

Đồi tiếp đồi bao la

… Đêm rơi sương ướt đẫm

Quả tim vết đạn hằn

Bao năm ôm súng đạn

Không một lần về thăm.

(Kích Đêm, 1971 – trang 128)

Dấn thân trong cuộc chiến vẫn tiếp tục cho đến thời điểm ngày tàn của cuộc đời binh nghiệp qua bài thơ Lui Binh Hành rất tuyệt, với tôi, đây là một trong những bài thơ hay trong thi ca người lính VNCH:

“Lui binh lui binh hề lui binh

Tướng giỏi nghiến răng nén bất bình

Chiến trận bao năm chưa chiến bại

Một ngày buông súng quỉ thần kinh!

… La Ngà, Gia Huynh địch vây khổn

Tánh Linh tràn ngập bầy kên kên

Quan nghinh đầu súng lính đoạn hậu

Sống chết trời cho súng nổ rền

… Tiểu đoàn ba trăm còn ba mươi

Mất tích thương vong lính tả tơi

Tận nhân lực anh hùng mạt vận

Xuôi đời theo vận nước nổi trôi!

Lui binh lui binh hề lui binh

Tướng giỏi nghiến răng nén bất bình

Trăm trận ra quân trăm trận thắng

Tháng tư bẽ súng đất trời kinh!

(Lui Binh Hành - trang 56, 56, 58)

Sau lần lui binh đó, Cộng Quân cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, quần đảo ngục tù dựng lên với Quân, Dân, Cán, Chính VNCH. Trước đây đọc bài Hành Phương Nam năm 1943 của Nguyễn Bính và Trường Sa Hành năm 1974 của Tô Thùy Yên với nỗi buồn man mác, Lui Binh Hành của Trần Văn Sơn với nỗi đau thương, uất hận thấu trời!

Bài thơ Tự Truyện viết cho hai đứa con thơ khi vào chốn lao tù:

“… Chuyện ngày xưa ba mẹ mới cưới nhau

Mẹ công chức ba quanh năm đánh giặc

Đồng lương mẹ chắt chiu từng xu từng cắc

Đồng lương ba tiền lính tính liền

Con chào đời tháng tư bảy mươi lăm

Anh hai con chưa đầy hai tuổi rưỡi

Ba mẹ con bị ném lên vùng kinh tế mới

Ngôi nhà từ đường đảng xẻ thịt phanh thây

… Mẹ gánh hai con mỗi đứa một đầu

Thất thểu đêm ngày trốn về thành phố

Chiếu đất màn trời đầu đường xó chợ

Mưa nắng che thân ống cống gầm cầu

Ba-mẹ-con bị bắt nhốt vào tù

Tội duy nhất đảng cướp nhà bịt miệng

Con khát sữa khóc la khản tiếng

Bầu vú khô mẹ vắt kiệt tia máu cuối cùng

Bạn tù thương pha nước lã muối đường

Đứa con lớn gặm khoai sùng ngộ độc

Mẹ thoi thóp ôm hai con khóc ngất

Cấp cứu rền vang tiếng vọng hư vô…

… Ba ra tù tháng mười một tám mươi ba

Chín năm khổ sai ba miền Nam - Trung - Bắc

Gia đình ta sống tiếp đời khổ nhục

Hành khất trời, hành khất đất Phương Nam

Hành khất dung thân ở cuối đường hầm

Tia nắng rọi nhắc ba mặt trời vẫn mọc...”

(Tự Truyện – trang 135, 136, 137)

Khi ra tù, trở về quê quán với hình ảnh bi thương:

“Cõng con dắt vợ leo đồi

Phá rừng làm rẫy cất chòi tịnh tâm

Vợ con tắm vũng trâu nằm

Lưng gùi tay rựa quanh năm cuốc cày

Đầu trần chân đất hôm nay

Mai sau rồi cũng bóng mây lưng đèo”

(Lên Rừng Làm Rẫy - trang 213)

Chia sẻ nỗi niềm với con về cuộc đời mình qua những dòng thơ chân thật khi trải qua cuộc đổi đời:

“Thời trai trẻ ba mơ làm khanh tướng

Mê văn chương và mê cả kiếm cung

Khi thất bại quay về ba chợt tỉnh

Rằng mẹ con là tia sáng cuối cùng”

(Tia Sáng Cuối Cùng - trang 199, 200)

Trong chốn lao tù, tôi đã đọc được nhiều bài thơ của nhiều bạn văn viết trong hoàn cảnh đó trải dài từ Nam ra Bắc, quặn đau và cảm động. Với Trần Văn Sơn, thời gian lao tù đó, tác giả chứng kiến hình ảnh bạn tù Nguyễn Văn Xa chết hai lần tại trại tù Yên Bái miền thượng du Bắc Việt, xác nằm trong chòi lá dưới chân đồi chờ sáng đem chôn. Bạn tù, một bác sĩ Quân Y QLVNCH, vô tình vào gặp, rờ ngực thấy còn ấm, làm hô hấp nhân tạo cứu sống ông. Lần thứ hai, xác ông cũng bị vứt trong chòi lá dưới chân đồi và được bạn tù khiêng vào trại cứu sống. Ông cùng gia đình qua Mỹ diện HO, ở Nam California. Hình ảnh đó được mô tả qua dòng thơ: 

“Khi bạn ta nằm im trong chòi xác

Ngực còn ấm hy vọng ngày họp mặt

Óc còn tươi mơ hạnh phúc gia đình

Bạn nằm im vĩnh biệt bạn bè thân

Bạn bè một thời nằm gai nếm mật

Bạn bè một thời chung lưng đấu cật

Nay chung tù, chung khổ nhục bên nhau

Đến tận cùng mới thật sự bắt đầu

Khi bạn ta nằm im trong bóng tối

Sự sống bắt đầu bằng bàn tay đồng đội

Bằng tình thương cứu sống Nguyễn Văn Xa

Bằng niềm tin thánh thiện bao la

Từ địa ngục bạn tìm về nguồn cội

Từ địa ngục bạn đến vùng đất mới

Và bắt đầu, thật sự của chúng ta

… Đến tận cùng mới thật sự hiểu ra

Sự sống bắt đầu gọi tên Nguyễn Văn Xa”

(Bắt Đầu – trang 71, 72) 

Tôi đồng cảm với Phạm Văn Nhàn khi viết: “Đọc thơ Sơn thấy đầy ấp những hình ảnh kỷ niệm của đời anh đã trải qua, nơi chốn, bạn bè, tù tội. Để rồi những nơi ấy đã gợi lên cho tôi những hình ảnh, địa danh mà tôi cũng đã đến. Những nỗi khổ trong trại tù cải tạo, miền Bắc hay miền Trung. Những người bạn tù thiếu ăn, thiếu thuốc khi ngã bịnh thì chết. Chiếc hòm không đáy lại được đem đến. Manh chiếu bó lại đem ra nghĩa địa tù để chôn. Bạn tù đi ngang qua, cúi đầu tưởng nhớ. Trại tù nào cũng giống nhau. Đói. Lạnh. Và khổ. Anh trải qua những trại tù miền Bắc. Tôi trải qua những trại tù miền rừng núi miền Trung. Đọc những câu thơ anh ghi lại trong tù, sao nghe buồn quá đỗi”.

Nỗi đau đó thấp thoáng qua những dòng thơ:

“Rừng phơi xác gỗ tươm nhựa hận

Suối cạn dòng khô sỏi đá buồn

Đất khổ gầm gừ cơn địa chấn

Chim biệt tăm thú dữ xa nguồn

Kẻ loạn tâm xẻ núi lấp sông

Biển tràn bờ ngập mặn ruộng đồng

Bão tố cuồng phong và khí uất

Nhuộm hồn u uẩn động huyền không

...Đành thả đời trôi dạt muôn nơi

Nhân gian điên loạn khóc hay cười

Đất chuyển hồn thiêng vào vũ trụ

Trăng sao soi sáng giấc mơ người.

(Đất Khổ - trang 39)

Bạn ta, Trần Văn Sơn, gầy ốm, chưa tới 50 ký nhưng trải qua chín năm trong lao tù nơi núi rừng miền Bắc, tưởng chừng bỏ xác như hình ảnh bạn tù Nguyễn Văn Xa nhưng được sống còn và cùng vợ con đi diện H.O tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Vì vậy tựa đề Hồi Sinh với bạn ta như từ địa ngục - Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của nhà văn A. Solzhenitsyn – khi sống lưu vong trên mảnh đất tự do.

Bạn ta, Trần Văn Sơn, thời chinh chiến cũng được gọi “đệ tử của Lưu Linh” nhưng khi hỏi bạn ta, chỉ khi nào “chén tạc chén thì” với bằng hữu nên trong thơ “thấp thoáng rượu và bạn bè”.

Bài thơ Uống Rượu Với Bằng Hữu (tại nhà Lê Hùng với Trạch Gầm, Thiết Trượng, Lê Phi Ô, Phan Bá Thụy Dương, Vương Trùng Dương...) nơi chúng tôi thương gặp nhau ở Little Saigon

“Rượu rót tràn ly nâng ly cạn

Lực kiệt thân tàn vạn nỗi đau

Càng uống nhìn nhau càng khóc hận

Giày Saut chưa dẫm nát rừng sâu

Rót thêm ly nữa mời bạn hiền

Chưa say sao mắt bạn rưng rưng

Thám sát tử sinh trong lòng địch

Sá gì ly rượu buổi tàn đông

Chiến trận bày ra trên bàn rượu

Bình Long - Quảng Trị - Chiến khu Đ

Pleiku - Bình Giả - Đồi Bảo Đại

Tráng sĩ đi không hẹn ngày về

Quanh quẩn bên ta hồn chiến hữu

Về đây gặp bạn chiến trường xưa

Sống gửi thác về, nâng ly rượu

Ta bạn chung lưng gió chuyển mùa

… Tàn tiệc chỏng chơ bàn ghế lạnh

Gặp nhau thoáng chốc vội chia tay

Bạn về ta ở đời hiu quạnh

Râu tóc bạc phơ tiếp nối ngày”

(Tuyển tập Hồi Sinh– trang 40, 41)

Khi Trần Văn Sơn viết về Hà Thúc Sinh của thời chinh chiến: “Rượu, thuốc thâu đêm, đời lính gặp nhau chỉ có thế, mượn rượu làm vui sau những lần hành quân gian khổ, sau những trận đánh khốc liệt. Có khi tiền lính tính liền, chia nhau ly rượu, điếu thuốc rồi ngậm ngùi chia tay mỗi người mỗi ngả, bạn về vùng địa đầu giới tuyến, ta trở lại sông rạch Cửu Long, tiếp tục cuộc hành trình trên con đường vô định…”. Khi hỏi bạn ta vào thời điểm đó vì hình như cả hai cũng “bạt mạng” giống nhau. Bạn ta chia sẻ trong cơn binh lửa đó với tử sinh nhưng nhìn lại “Một Thời Để Yêu & Một Thời Để Chết” như tựa đề tác phẩm của Erich Maria Remarque, nay tuổi già nơi xứ người tưởng chừng “một thời để chết” còn sáng tác và có nhau thì “Sá gì ly rượu buổi tàn đông”.

Dù cuộc đời của bạn ta đã trải qua bao thăng trầm, bất hạnh, nghiệt ngã như những đồng đội, chiến hữu trong giai đoạn tang thương của lịch sử nhưng trong thi ca lại chọn tựa đề khi đặt tên cho những “đứa con tinh thần” với Vườn Dĩ Vãng, Thấp Thoáng Vài Nụ Hoa và Hồi Sinh. Nhà thơ lãng mạn Percy Bysshe Shelley của Anh ở thế kỷ 18 cho rằng: “Thi sĩ là con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình”. Và, cũng như Thanh Tâm Tuyền “Tôi không còn cô độc” vì những dòng thơ đã được đón nhận, chia sẻ với nhau.

Little Saigon, tháng 9/2021

Vương Trùng Dương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ năm 1963 đến nay (2021) là hơn nửa thế kỷ. Các kho lưu trữ tài liệu mật của các bộ Ngoại Giao, Quốc Phòng, và cục Tình báo Trung Ương Hoa Kỳ đã giải mật cho công chúng và giới nghiên cứu được tự do tiếp cận, vào xem hoặc truy cập điện tử, để mọi người có thể nhìn lại một khúc quanh của lịch sử Việt Nam một cách rõ ràng. Sách này gồm hai tập, tập 1 trình bày về cuộc vận động bình đẳng tôn giáo năm 1963 của Phật giáo Việt Nam và tập 2 là trình tự thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963 ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ.
Vào thời điểm này, phải chăng thơ đã là món ăn tinh thần lỗi thời, mất hương vị quyến rũ, thua mùi phở hấp dẫn khi đói bụng? Đúng như vậy, có đói mới thèm ăn. Làm sao biết tâm tư của bạn đang đói? Hỏi thử nó có mệt mỏi, có căng thẳng, có phiền muộn chuyện đời, có ghét bỏ người khác? Nếu có, đúng rồi, nó đang đói. Thơ là món ăn tinh thần cổ truyền từ tiền sử. Nếu tiểu thuyết là bữa tiệc, truyện là bữa ăn tối, thì thơ Việt chính là phở. Một món ăn độc đáo cho bất kỳ người Việt nào tại gia hoặc tha hương.
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh.
Nhân vật trong tiểu thuyết tôi là những khả thể vô thức của chính tôi (Kundera). Bởi cuối cùng là để vượt ra, vượt qua: một cái đường biên mong manh mà mênh mông đó. Ở đó, Bên kia đường biên “bản ngã” của riêng tôi chấm dứt (trang 19). Nghĩa là đạt đến vô ngã / non-self (không phải no-self). Cái đường biên đó do chính tác giả tạo ra cho mình và loay hoay tìm lối thoát, càng tìm lối thoát càng bị quấn chặt. Chỉ vượt ra, vượt qua (Gaté, gaté…paragaté…) đường biên khi có được trí Bát nhã (Prajna) thấy được ngũ uẩn giai Không, mới “độ nhất thiết khổ ách”.
Đây là một tác phẩm lịch sử từng giai đoạn của Quân Lực Việt Nam Công Hòa. Nhà biên soạn sử học Hồ Đắc Huân, đã miệt mài trong bao nhiêu năm, cô đọng, trau chuốt, giao tiếp với nhiều nguồn tin tức khác nhau, cộng với hành trình từ bản thân, là chứng nhân lịch sử; đã cho ra mắt một tác phẩm để đời!
Có Tự ngã không? Đức Phật dạy: Có nghiệp được tạo tác, có quả dị thục được lãnh thọ, nhưng không có người tạo tác, không có người lãnh thọ. Phật giáo không cho có cái gọi là Tự ngã, tiểu ngã, đại ngã, linh hồn, nhưng tin có “Nghiệp mang theo” để “trả quả”. Cái gì mang Nghiệp theo? Thần thức tái sinh, luân hồi?
Cuốn Hồi Ký dày khoảng 500 trang, khổ lớn, với phần biên tập và thiết kế sách của Trịnh Y Thư, phần thiết kế bìa của Nina Hòa Bình Lê, và gồm 7 phần chính, ngoài Lời Ngỏ và Kết Từ. Phần I, tác giả nhớ lại thời còn ở Hà Nội trước năm 1954 với bố mẹ và anh chị; Phần II kể về chuyến di cư đầu đời một thân một mình của cô gái 16 tuổi từ Hà Nội vào Sài Gòn, lập gia đình và những cơ duyên đưa đẩy vào ngành nghệ thuật điện ảnh Miền Nam trước năm 1975; Phần III kể chuyện lưu vong ra hải ngoại trong biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, làm người tị nạn Việt Nam đầu tiên tại Canada, với hai bàn tay trắng làm lại cuộc đời và những phấn đấu gian lao cực khổ để bước vào sân khấu điện ảnh lộng lẫy của Hollywood; Phần IV thuật lại những chuyện vinh quang trong sự nghiệp điện ảnh và những buồn vui của bản thân, gia đình, và những mối giao tình với bạn bè trong cuộc sống tại Hoa Kỳ; Phần V kể chuyện “đứng dậy, đứng thẳng, đi tới” sau những lần vấp ngã để trở thành nhà diễn thuyết khắp thế giới,
“Nước hiện cũng ở quanh tôi, quanh anh chị. Nó ở ngay trang sách này mà ta đang đọc. Ở trong màn hình tôi đang nhìn, trong bàn phím máy computer tôi đang gõ, ở trong cái áo cái quần tôi đang mặc, trong bức tranh trên trên tường…, kể cả trong cái đinh đóng trên đó. Tôi không thấy nó vì tôi ít khi chịu khó nhìn kỹ để thấy nó. Nhưng có điều bây giờ tôi biết rất rõ rằng: không có nước thì cái thằng tôi này cũng không có; không có nước thì cũng không có anh, không có chị ngồi đó mà đọc trang sách này. Cái bàn, cái ghế, cái cây, cái đám mây ngoài kia… cũng không tuốt.” (tr. 158) Không chỉ có vậy đâu mà còn nhiều nữa. Văn Công Tuấn, trong tác phẩm “Chớ Quên Mình Là Nước,” đã dẫn người đọc từ chuyện đất và nước trong đời thường, trong khoa học, trong văn chương tới chuyện đất và nước trong lãnh vực quốc gia dân tộc, từ chuyện đất và nước trong triết học với bản thể và diệu dụng của nước, bước sang chuyện lấy cơ duyên đất và nước để nói đến chuyện thực chứng tâm linh để giác ngộ và giải thoát
Tôi cố ý tìm tòi và trích dẫn nhiều ý kiến của Nguyễn Hiến Lê và cảm nhận về từng tác phẩm Nguyễn Hiến Lê của nhiều tác giả khác. Tôi rất mong được cung cấp càng nhiều thông tin, sự kiện, chi tiết liên quan đến tác phẩm càng tốt, để tiện việc tham khảo và nghiên cứu về Nguyễn Hiến Lê.
Trong tuyển tập “Vằng Vặc Một Mảnh Lòng,” có nhiều bài rất giá trị mà cũng khó tìm, như bài “Lời Giới Thiệu Luận Án Tiến Sĩ Phật Học Đại Học Bihar - Ấn Độ, 1961 Của Tỳ Kheo Thích Minh Châu: So Sánh Kinh Trung A Hàm Chữ Hán và Kinh Trung Bộ Chữ Pali do vị Viện Trưởng, Tân Tòng Lâm Nalanda S. Mookerjee viết vào ngày 23 tháng 3 năm 1964, và Thích Nữ Trí Hải dịch Việt. Hoặc như bài “Huyền Trang Và Công Cuộc Thỉnh Kinh Vô Tiền Khoáng Hậu Của Nhân Loại” của học giả Nguyễn Hiến Lê, và bài “Như Lai Vô Sở Thuyết” của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.