Hôm nay,  

Đọc thơ Nguyễn Hàn Chung

12/07/202217:38:00(Xem: 5180)

Điểm sách


Screenshot 2022-07-12 174657 

 

Nguyễn Hàn Chung làm thơ rất sớm, ngay từ khi còn ở trong nước, trước năm 1975. Anh đã từng có mặt trên các tạp chí Khởi Hành, Đối Diện. Ra hải ngoại những năm 2000, anh tiếp tục viết, tự làm mới thơ mình, trở thành một trong những tác giả có nhiều người đọc. Ở anh hiện rõ sự đam mê đối với chữ nghĩa, với nghệ thuật. Anh tham dự các sinh hoạt văn học, các lối đi mới, các thể loại khác nhau. Nguyễn Hàn Chung viết nhiều thơ tự do, thơ lục bát, tân hình thức. Sở thích và tài năng của anh là ở sự pha trộn các giọng điệu khác nhau: hài hước và trữ tình, đùa cợt và phê phán. Anh viết thơ thời sự, thơ thế sự, nhưng thơ tình nhiều hơn. Loại thơ sau cùng tập trung vào mối quan hệ thường ngày giữa người đàn ông và phụ nữ, vợ và chồng, giọng bỡn cợt, chữ bình dân, nhưng ý tứ sâu xa, hoặc lắt léo, hoặc cả hai.

 

Có thi sĩ mượn chuyện văn

chương là cái cớ lên giường mà thôi

 

Nguyễn Hàn Chung sống qua thời kì chiến tranh ở miền Nam, sau năm 1975, anh dạy học và viết văn, chứng kiến nhiều cảnh đời ngang trái. Anh gần gũi với đời sống của người bình dân trong nước lẫn hải ngoại; những kinh nghiệm ấy, lối nói ấy thể hiện trong văn chương của anh, và đó là một thành công đặc biệt. Tôi gọi đó là khuynh hướng bình dân hóa trong thơ.

 

Nhớ em nhớ đến bơ phờ
dù rằng tái ngộ chẳng xơ múi gì

 

Thơ anh là cơn mộng có ý thức.

 

Trong những thời đại khó khăn, tuyệt vọng, ngôn ngữ cũng cần một thứ tuyệt vọng mới, sự phá chấp, một thứ “lục bát tản thần” theo như cách nói của Nguyễn Hàn Chung. Anh cố gắng nổi loạn trong thơ, nhưng sự nổi loạn ấy khá hiền lành, hạn chế trong những quan hệ cá nhân, quan hệ nam nữ.

 

Tôi nghĩ rằng nếu anh phát triển năng lực ấy vào các chủ đề khác, chúng ta sẽ được đọc những tác phẩm lạ hơn nữa. Thơ anh giàu tính địa phương, lối nói miền Trung, nhưng sự quan tâm của anh là dân tộc và phổ quát. Nỗi buồn trong thơ Nguyễn Hàn Chung khó nhận ra nhưng ngấm ngầm sâu xa giữa các hàng chữ, đôi khi hiện ra như sự giận dữ, đôi khi than vãn, và theo tôi trong những bài thành công hơn cả, chất khí khái tâm sự trong thể hành ngày trước. Tôi thích cách anh viết về những gặp gỡ đời thường, tình cảm hàng ngày, nhẹ nhõm, châm biếm nhưng không cay đắng.

 

Tôi về Đà Nẵng

Tôi về Đà Nẵng thăm tôi

tìm ngây thơ cũ tìm hồi hộp xưa

Tôi về Đà Nẵng nghe mưa

Nắng như lửa đốt ngày chưa xuống đò

Bạn bè có đứa hay ho

Đứa khô như tép buồn xo hát xàm

Đứa bắt tay ngó lạnh òm

Đứa làm thơ phải diễn tuồng ruồi bu

Tôi về tìm bến Đò Xu

Sân bay Nước Mặn kín phu quán tàu

Bạn văn trợn mắt lắc đầu

Kẻ nhăn, người nín kẻ cau người buồn
(
Tôi về Đà NẵngLục Bát Tản Thần I)

 

Văn xuôi hóa câu thơ là khuynh hướng lớn của các nhà thơ hiện đại và đương đại. Điều này có thể dẫn đến nhầm lẫn ở một số người viết, khi họ tin rằng có thể dễ dàng vượt qua đường biên giữa hai thứ ấy mà không tốn công sức gì cả. Thực ra vượt qua đường biên, người Việt gọi là vượt biên, tốn kém nhiều năng lượng: nguy hiểm. Nguyễn Hàn Chung là người có kinh nghiệm, anh đẩy xa công cuộc văn xuôi hóa ấy. Đối với Nguyễn Hàn Chung, văn xuôi hoá cũng là dân gian hóa một hồn thơ hiện đại. Nhưng đôi khi anh cũng không tránh được những câu dễ dãi:

 

Anh biết em ưa son phấn

nên mới mua về tặng em

 

Có nhiều cách hài hước trong văn chương Việt hiện nay, và tôi nghĩ rằng khuynh hướng ấy sẽ còn tăng lên mãi. Với chữ hài hước tôi muốn nói về các khái niệm khác nhau: hài hước, giễu cợt, giễu nhại, mỉa mai, trào phúng, tự trào, bông lơn, chọc ghẹo. Hài hước là phương cách để triệt tiêu sự thân mật, đẩy xa khoảng cách giữa người viết và người đọc, nhưng mặt khác, trong khi người viết hôm nay đã thay đổi thì người đọc hôm nay cũng không còn là người đọc trước nữa: họ di chuyển cùng với các bạn, và thường thì thông minh hơn chúng ta, người viết. Trong thơ, khác với văn, nếu không tài hoa thì phải thành thật, hoặc ngược lại, và hai thứ đó không mấy khi đi với nhau. Đây là một bài kết hợp được hai thứ ấy, cảm động:

 

Giỗ cha hai vợ chồng mình
mâm cơm nho nhỏ một bình hoa tươi
cha đang trên mấy từng trời 
hay cha cưỡi hạc xa chơi niết bàn

Ngày xưa còn mẹ lo toan
giỗ cha cố xứ bạn sang dặt dìu
bây chừ viễn xứ liêu xiêu
tàn hương ngồi ngó mâm nhiều hơn ăn

Ba mình không mấy ham văn
cày sâu cuốc bẩm thường hằng đăm chiêu
cả đời ba mẹ hẩm hiu
cả đời ba mẹ khổ nhiều hơn vui

Giỗ cha ở chốn phương người
nén hương thắp vội vắng người hàn huyên
mâm cơm không có láng giềng
bà con nên vẫn còn nguyên giữa bàn
(
Giỗ cha đất khách)

 

Chia sẻ cách viết như Nguyễn Hàn Chung ở hải ngoại, còn có những người đi trước anh hoặc sau anh, như Nguyễn Đăng Thường, Vương Ngọc Minh, trong nước như Nguyễn Thế Hoàng Linh, Lý Đợi, Lê Vĩnh Tài, Inra Sara, Liêu Thái. Đó là một thứ thơ gạt bỏ các xúc cảm thông thường, làm cho ngôn ngữ trở nên trần trụi, thấm đẫm các hoàn cảnh bi đát, không từ bỏ bất kỳ một góc nhìn nào, tiếp cận sự thật không nhân nhượng, sử dụng các phương ngữ, các tiếng lóng, các kinh nghiệm dưới đáy và bình dân, sự không chia sẻ của các xúc cảm cá nhân. Vì vậy thơ Nguyễn Hàn Chung có nhiều tính chất hậu hiện đại, mặc dù đó chưa chắc là chủ trương của anh. Thơ anh vừa dễ hiểu vừa khó hiểu, và điều này đến lượt chúng làm nên giá trị của bài thơ.

 

mây đen gió rít cuống cuồng
buông em ra ngọn đèn buồng tắt câm

Thắp đèn như xuống cõi âm
cứ leo lét sáng mấy lần lung lay
em nằm nhắm riết lông mày
gió giông hãm hiếp cơn say vợ chồng

Mưa chưa rơi gió vẫn quầng
sấm hung hãn đánh ầm ầm trên cao
thôi em ta phải thoái trào
biết đâu mưa xuống nơi nào trú thân

Chiều trời xưa ấy thu phân
tiếc không thể tiếc quên dần, không quên
(
Gió giông quê cũLục Bát Tản Thần I)

 

Qua những tập thơ như Lục bát tản thần, Dự cảm rời, Mót chữ trong kinh, Nguyễn Hàn Chung đã có những người đọc yêu mến của mình. Bây giờ anh lại tiếp tục Lục Bát Tản Thần 2Mót Chữ Trong Kinh 2. Chỗ của anh nằm ở đâu giữa những tác giả cùng thời? Rất khó trả lời câu hỏi này, không những vì trong thời đại chúng ta, mọi giá trị đều hỗn loạn, mà còn vì hệ tọa độ của Nguyễn Hàn Chung vẫn thay đổi, anh không ngớt tìm kiếm và lặng lẽ gõ nhiều cánh cửa, thay đổi phương vị. Trong tình huống khan hiếm các nhà phê bình, các nhà thơ Việt Nam đơn độc trong công việc của họ, không có ai khích lệ, không có ai phê phán. Không có một hệ thống có tính nâng đỡ (supportive), các nhà thơ Việt Nam tốn nhiều sức hơn để làm ra cái mới, và cái mới của họ không dễ dàng được thừa nhận, và họ phải kiêm nhiệm nhiều thứ công việc lặt vặt khác, như chống cự với tiếng ồn, hay chống cự với chính mình như Don Quixote chống cự với cối xay gió.

 

Tôi đơn phương ly hôn tôi

với tôi mỗi đứa một đời sống riêng

một tôi bằng lặng bình yên

nuôi con dại giúp vợ hiền đảm đang

một tôi loạn đả hoang toàng

câu thơ như bộc phá tan biên thùy
(
Tôi đơn phương ly hôn)

 

Trong những nhà thơ cùng thế hệ, ở hải ngoại và trong nước, Nguyễn Hàn Chung là một trường hợp như vậy, bên dưới một vẻ ngoài giao thiệp cởi mở và khá rộng, làm thơ liên tu bất tận trên mạng và trên báo chí, bàn luận về mọi thứ trên đời không giữ kẽ, anh lặng lẽ đơn độc đi con đường của mình, dũng cảm thăm dò khả năng của chữ, cười cợt nhưng say đắm, hoang đàng và nghiêm khắc, ngày càng làm ngạc nhiên những người đọc trung thành và yêu mến của anh. Tôi nghĩ rằng Nguyễn Hàn Chung thực sự là một tiếng nói mới, tài năng, những năm gần đây, và tin rằng anh đang góp phần làm mới thơ Việt Nam.

 

Nguyễn Đức Tùng

 

 (Hai tập thơ Lục bát tản thần 2 & Mót chữ trong kinh 2 có bán trên lulu.com).



 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 17 tháng 10/2021, tại Hội Chợ Sách (Book Fair) ở Trung Tâm thương xá Eden, do Nhà Việt Nam tại Virginia và Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại tổ chức, “Tuyển Tập THƠ Chim Bay Mỏi Cánh” của nữ sĩ Cao Mỵ Nhân được giới thiệu lần đầu tiên...
Trong Vườn Mắt Em là một hợp tuyển gồm truyện & kịch chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Tây Ban Nha của tổng cộng 21 nước trên thế giới dùng tiếng này làm ngôn ngữ chính thức. Các nhà văn trong hợp tuyển này đại diện cho một nền văn chương tiếng Tây Ban Nha hùng hậu và đa dạng; họ là những người có sự nghiệp văn chương lẫy lừng: từ Gabriel García Márquez, María Luisa Bombal, Luis de Lión, đến những tác giả trẻ hơn đã khẳng định được vị trí của mình và được nhiều giải thưởng văn học như Claudia Hernández, Valería Luiselli, Patricio Pron, Julio Ramón Ribeyro… Dịch giả là Trần C. Trí, đã giảng dạy ngôn ngữ học Tây Ban Nha bậc đại học và cao học ở Nam California trong hơn hai mươi năm qua. Việc thực hiện hợp tuyển này là một quá trình tuyển lọc công phu của các tác giả đại diện cho 19 nước Nam Mỹ, thêm Tây Ban Nha và Guinea Ecuatorial ở châu Phi, và để chọn một truyện/kịch tiêu biểu cho từng nhà văn trong hợp tuyển.
Sách mới của nhà văn Phạm Quốc Bảo: Chuyện Nào Vẫn Cần Thuật Lại, cuốn II.
Tác phẩm mới phát hành của Lê Giang Trần là một tuyển tập nhiều bài viết, trong đó gồm 4 thể loại: Tản mạn, Bút ký, Truyện ngắn, Thơ. Trong thể loại nào, anh cũng thành công theo một cách cảm xúc rất riêng, với kiểu rất mực giang hồ chữ nghĩa, nơi nhà thơ Du Tử Lê đã gọi Lê Giang Trần là một “công tử Bạc Liêu bập bùng những hơi thở buồn”
Trong lần về nước đầu tiên, năm 1996, tôi ở Hà Nội ba tuần, gặp gỡ khá nhiều người cầm bút ở đó, từ Dương Tường đến Trần Quốc Vượng, từ Hoàng Ngọc Hiến đến Đỗ Lai Thuý, từ Phong Lê đến Văn Tâm, từ Lê Đạt đến Dương Thu Hương, từ Trần Dần đến Hoàng Cầm, từ Nguyễn Huệ Chi đến Bảo Ninh. Nhưng có cảm giác thân nhất là hai người: Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Xuân Nguyên...
Một người sống được gần một trăm tuổi, còn sinh lực dồi dào, nên chưa ra đi, đó là chuyện xưa nay hiếm. Hơn nữa, trong tác phẩm mới nhất: Tinh thần lãnh đạo, sáu nghiên cứu trong chiến lược thế giới (Leadership - Six Studies in World Strategy)...
Tác phẩm nhan đề Quan Âm Tế Độ, nơi bìa có ghi thêm đề phụ là: Chuyện tu hành khó khăn của Đức Phật Bà Quan Âm, gia tài văn học Phật Giáo Chữ Nôm. Do Nguyễn Văn Sâm phiên âm dịch chú giải, và Nguyễn Hiền Tâm đính chánh. Bìa trong ghi là: Truyện Nôm Quan Âm Diệu Thiện, từ nguyên tác Quan Âm Tế Độ Diễn Nghĩa Ca. Nhìn sơ khởi, thấy trước tiên, đây là một tác phẩm mang văn phong Nam Bộ. Khi người viết mở bất kỳ, thí dụ, ra nơi trang 175, thấy dòng thứ 3479 viết “Tay chưn buộc trói thiết tha” là thấy ngay giọng người miền Tây. Thứ nhì, đây là thơ lục bát, trong văn phong ưa thích ngâm nga của dân miền Tây, cho thấy cách hoằng pháp của cổ đức khi phiêu dạt từ miền Bắc hay Trung về khai phá miền Nam, đã viết lên truyện thơ chữ nôm này để hoằng pháp.
Tuyển tập TIÊU DAO BẢO CỰ, gồm 4 quyển...
Cuốn Chí Phèo, thật ra, là hồi ký của một gã nông dân bị tha hoá trong một xã hội thối nát. Nam Cao chỉ là người chấp bút. Tôi không cần ai viết giùm. Tôi có thể tự viết. Viết, ở đây, là việc làm hoàn toàn có tính cá nhân, một tiếng nói của cái tầm thường. Tôi tưởng tượng: Một ngày nào đó, tâm hồn thật thanh thản, hết những tranh chấp trong/ngoài, quốc/cộng, người ta sẽ nhìn lại mấy chục năm văn học hải ngoại. Sau khi đọc những bài thơ hay, những cuốn tiểu thuyết lớn, hẳn có lúc người ta sẽ nảy chút tò mò muốn tìm hiểu những cái tầm thường chung quanh đời sống văn học: Lúc ấy cuốn sách này sẽ lên tiếng.
Chuyện Nào Vẫn Cần Thuật Lại, cuốn I / Tác giả: Phạm Quốc Bảo / Nhà xuất bản: Lotus Media...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.