Hôm nay,  

Henry Kissinger - Tinh thần lãnh đạo - Sáu nghiên cứu trong chiến lược thế giới

02/08/202218:17:00(Xem: 8820)
Điểm sách

kiss

Henry Kissinger - Leadership: Six Studies in World Strategy, Allen Lane 1. Edition 2022.



Một người sống được gần một trăm tuổi,  còn sinh lực dồi dào, nên chưa ra đi, đó là chuyện xưa nay hiếm. Hơn nữa, trong tác phẩm mới nhất: Tinh thần lãnh đạo, sáu nghiên cứu trong chiến lược thế giới (Leadership - Six Studies in World Strategy), cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã chứng minh được ông còn đầy minh mẫn trong khả năng quan sát các vần đề thời sự quốc tế với tinh thần cảnh giác cao độ, đó là một việc làm càng đáng ngạc nhiên hơn.

Khi đề cập đến các chính khách có nhiều ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20, Kissinger chọn Konrad Adenauer, Margaret Thatcher, Charles de Gaulle, Anwar el-Sadat, Lý Quang Diệu và Richard Nixon làm các khuôn mẫu để đề cao thành tích lãnh đạo đất nước.

Vấn đề là làm thế nào họ đã thành công khi vượt qua muôn vàn thách thức trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh và các khủng hoảng kinh tế trong khi đa số công luận cho rằng, họ không thể đương đầu, Kissinger đưa ra những lý giải cơ bản. Trong tinh thần lãnh đạo, chính lòng dũng cảm và cá tính là những phẩm chất quan trọng khi đảm nhận nhiệm vụ. Từ những tình huống phức tạp và khó khăn, nhà lãnh đạo phải biết gạt bỏ các truyền thống, chọn lựa một chính sách khả thi và không bao giờ hành động mà bất chấp hậu quả. Và cuối cùng, cho dù họ không thể nào lượng định đầy đủ các lợi ích và rủi ro trong thời điểm đưa ra quyết định, nhưng kiên cường theo đuổi đường lối là quan trọng nhất.

Sáu tinh thần lãnh đạo

 

Konrad Adenauer đã mang lại cho Tây Đức bị mất uy tín sau Đệ nhị Thế chiến một vị thế quan trọng trong chính trường quốc tế. Từ vực thẳm đạo đức và kinh tế xã hội, Margaret Thatcher, Charles de Gaulle và Lý Quang Diệu đã đưa đất nước của họ dần hồi phục và vươn lên. Anwar el-Sadat đã đưa Ai Cập ra khỏi các bế tắc và can đảm làm hòa với Israel.

 

Riêng đối với Richard Nixon, Kissinger đưa ra một kết luận liên quan đến tình hình hiện tại. Một lần nữa, đối với hầu hết các khu vực trên thế giới ngày nay, Hoa Kỳ phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng, đan xen về cả chiến lược và giá trị. Như trường hợp của Nixon, chính sách đối ngoại của Mỹ cần linh hoạt hơn về mặt thực tế và sáng tạo.

 

Để tiếp tục mang lại lợi ích cho Hoa Kỳ, theo Kissinger, tinh thần lãnh đạo đất nước phải bao gồm ba khía cạnh chính: tầm quan trọng của quyền lợi quốc gia, duy trì tình trạng quân bình trong toàn cầu và khởi xướng các cuộc đàm phán đang diễn ra căng thẳng giữa các quốc gia quan trọng.

 

Cổ cho chủ thuyết hiện thực

 

Trong bối cảnh đàm phán với Moscow hiện nay đang diễn ra, Kissinger đề ra một đường lối theo chủ thuyết hiện thực, đó là cách suy nghĩ luôn hoài nghi về các lý tưởng tuyệt đối cho việc xây dựng một nền hòa bình trường cửu, kể cả triển vọng là chỉ hưởng tương đối một phần nhỏ của hoà bình, trong khi các chính trị gia phải chấp nhận các hậu quả khôn lường.

 

Ngay từ năm 1983, Margaret Thatcher đã tóm tắt vấn đề này mà Kissinger trích dẫn:

"Chúng ta không nên nhầm lẫn về các đặc điểm thực sự của Liên Xô, nhưng chúng ta phải chung sống với Liên Xô trong cùng một hành tinh. Đó là lý do quan trọng mà tại sao chúng ta phải nhận diện ra các mối quan hệ quốc tế trong tương lai sẽ như thế nào".

 

Trong hai chương viết về thành tích của Margaret Thatcher và Richard Nixon, Kissinger nhắc lại các phương cách mà cả hai và các cố vấn của họ đã xoa dịu được các nguy cơ khủng hoảng như thế nào, cho dù họ có những sai lầm.

 

Thách thức khác lại chính là các bất ổn thuộc chính trị quốc nội. Thatcher và Nixon đã phải chiến đấu trên hai mặt trận:   giới bồ câu và phe diều hâu, những người không lượng định được các nguy cơ của thế giới khi Moscow sẽ bị đánh bại và cam chịu sỉ nhục. Ngày nay, điều này dường như bị lãng quên ở phương Tây.

 

Giá trị của cuộc đối thoại chiến lược

 

Gần đây, với lời khuyên chấm dứt cuộc chiến xâm lược của Nga tại Ukraine thông qua cách đàm phán, Kissinger, vốn dĩ đã không gây được thiện cảm trong công luận quốc tế, đã trở thành một đối tượng thù nghịch.

 

Nhưng một trong những lời phê bình của Kissinger trong cuốn sách có một điểm hợp lý: phương Tây đã không thực tâm tiến hành một cuộc đối thoại chiến lược, theo nghĩa đen, với Nga. Đó là một chuyện nửa vời mà đã có cách đây trong nhiều năm.

 

Trên thực tế, trước đó, Nga tấn công Chechnya từ năm 1999 cho đến năm 2009,  chống Georgia năm 2008, sáp nhập bán đảo Crimea năm 2014 và hỗ trợ cho phe ly khai tại Donetsk và Luhansk thành lập “hai nền cộng hoà tự trị”, hiển nhiên nhất là Nga công khai can thiệp vào cuộc nội chiến Syria và Lybia từ năm 2015.

 

Để ứng phó, các nước  phương Tây chỉ có các biện pháp trừng phạt kinh tế tượng trưng.

 

Và ngày nay, sau cuộc tiến công của Nga tại Ukraine ngày 24-02-2022, Putin đã ngang nhiên vi phạm luật pháp quốc tế và làm cho trật tự hậu chiến châu Âu sau năm 1989/91 đã thay đổi triệt để.

Phương Tây vẫn chưa thích nghi để ứng phó, cho dù các biện pháp chỉ trích Nga gay gắt hơn và tỏ tình đoàn kết với Ukraine sâu đậm hơn. Cụ thể là việc viện trợ vũ khí vẫn chưa tương xứng và kịp thời để cho Ukraine bảo vệ đất nước, trong khi lòng dũng cảm của chính giới và nhân dân Ukraine là đáng khâm phục.

 

Đó chính là điểm ngược lại mà các chính khách được đề cập trong cuốn sách này, trước đây họ đã quyết tâm theo đuổi để thực hiện chính sách.

 

Theo Kissinger, bất kỳ một phân tích chính trị nào cũng phải hỏi xem là đối phương nhận thức về tình huống như thế nào. Cho dù nhận thức của Moscow ngày nay có lệch lạc hay sai lầm như thế nào đi nữa, thì đó cũng là cơ sở quyết định cho hành động của Nga.

 

Kissinger xác định: "Từ lòng ái quốc mang nhiều huyền thoại, Nga đang thay đổi chính sách đối ngoại thành một tham vọng đế quốc, tuy nhiên, nó có liên quan đến một cảm giác bất an trong lâu dài. Cuối cùng, nhận thức này có thể dẫn đến một tình trạng dễ bị tổn thương về mặt chiến lược mà từ lâu đã có trong nhận thức đối với các cuộc xâm lược trên khắp Đông Âu."

 

Khi phương Tây nay lại theo đuổi một chính sách đối ngoại cứng rắn đối với cả  Nga và Trung Quốc, Kissinger xem đó là một rủi ro thực sự.

 

"Cuối cùng, tình hình sẽ tạo ra một vòng luẩn quẩn tàn khốc tương tự của sự ngờ vực lẫn nhau đã gây ra Thế chiến Thứ nhất, nhưng những hậu quả trong tương lai sẽ còn khủng khiếp hơn một cách không thể so sánh được. Do đó, nên yêu cầu tất cả các bên xem lại các nguyên tắc chỉ đạo trong các hành vi quốc tế và khả năng hòa giải để cùng chung sống".

 

Kissinger tiên liệu cho nền hòa bình thế giới mong manh khá chính xác, nhưng không đi vào chi tiết. Riêng tại châu Âu, có ba nguy cơ nghiêm trọng mà phương Tây chưa hay không thể giải quyết được là:

 

Thứ nhất, sau khi Thế chiến Thứ hai kết thúc, một trật tự hậu chiến cho châu Âu thành hình với kế hoạch tái thiết và phát triển Marshall. Theo trào lưu chung, một niềm tin cho tất cả mọi người là một nền hoà bình vĩnh cửu dần dà sẽ đạt được khi tự do thương mại sẽ làm biến đổi toàn diện.

 

Niềm hy vọng này (Peace through Trade, Wandel durch Handel) nay đã tiêu tan. Tình trạng phụ thuộc một chiều của phương Tây vào nguồn cung cấp năng lượng của Nga cực kỳ nghiêm trọng là thí dụ. Tác hại nhất là ngay sau khi Nga thu tóm bán đảo Crimea năm 2014, châu Âu vẫn chưa tỉnh thức và hy vọng dự án Nord Stream 2 của Đức tiến hành. Các biện pháp trừng phạt kinh tế của phương Tây đã và sẽ không đủ để ngăn chặn Putin tiếp tục sử dụng phương tiện quân sự. Putin còn có thêm các loại vụ khí khác là ngũ cốc và vũ khí hạt nhân để đe doạ sử dụng.

 

Trong tương lai, nền kinh tế châu Âu sẽ khó độc lập về năng lượng. Triển vọng ổn định xã hội càng đen tối hơn khi các nhà máy điện hạt nhân than sẽ hoạt động trở lại, lạm phát leo thang, đàm phán bế tắc và công luận trở nên ít quan tâm hơn trước đây để ủng hộ cho Ukraine.   

 

Để ứng phó, phương Tây không còn cách nào khác hơn là phải sử dụng sức mạnh quân sự để tìm cách răn đe Nga và cơ sở để bảo đảm cho an ninh châu Âu, theo đuổi chiến lược này là chuyện không thể tránh khỏi.

 

Thứ hai, Putin không còn đáng tin cậy, vì không chỉ vi phạm luật pháp quốc tế mà  còn nói dối với Thủ tướng Đức Olaf Scholz và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron. Trong thời gian tháng 2 năm 2022, Putin đang chuẩn bị ra lệnh tấn công mà lại cam kết với hai nhà lãnh đạo này là sẽ không có chiến tranh. Do đó, phương Tây rất khó đạt được các thỏa thuận với Nga bất kỳ hình thức nào trong tương lai.

 

Chuỵện dối trá còn tiếp diễn. Bằng chứng mới nhất là khi ký thoả ước tạm thời cho việc vận chuyển lương thực tại cảng Odesa chưa ráo mực, Nga ra lệnh tấn công làm cản trở việc thi hành.

 

Thứ ba, cho đến nay, Putin đe dọa sẽ dùng vũ khí hạt nhân để cùng lúc tiến hành một cuộc chiến tranh thông thường và ngăn chặn phương Tây hỗ trợ cho Ukraine.

 

Để đối phó với mối đe dọa chiến cuộc leo thang, phương Tây phải triển khai một chiến lược mới là cần thiết. Chuyển biến tình hình trong chừng mực nào, đây sẽ là một vấn đề nhận định về việc sử dụng các loại vũ khí của hai bên mà hậu quả sẽ là khôn lường.. Các nguy cơ này đã phá hủy một nền trật tự hòa bình châu Âu sau hai giai đoạn kể từ sau năm 1945 và 1989/91.

 

Nga bị s nhục là nguy hiểm nghiêm trọng

 

Nếu chúng ta nghĩ tới một giải pháp để thay đổi tình thế ở Ukraine, thì Nga bị đánh bại mới là điều tốt. Nếu thế, quan điểm của Kissinger có rất nhiều điểm để tranh luận, bởi vì Nga, một siêu cường hạt nhân, khi bị đánh bại, việc sỉ nhục này sẽ gây nhiều nguy cơ khôn lường.

 

Qua nhiều ví dụ dẫn chứng với nhiều chi tiết, Kissinger cho độc giả thấy các cách mà chính giới có thể thoát khỏi các tình trạng bế tắc trước đây, khi họ có các quyết định mềm dẻo khác nhau. Tuy nhiên, độc giả cũng không khỏi thất vọng khi Kissinger phê phán một cách phiến diện.

 

Hai vấn đề mà Kissinger có trực tiếp quyết định là hỗ trợ cho các chế độ độc tài quân phiệt ở châu Mỹ La tinh và ném bom Campuchia, cả hai đã không được Kissinger thảo luận. Ngoài ra, còn có vụ Watergate và nhiều động cơ tiềm ẩn buộc Thatcher phải quyết định cho Anh phải đi theo trào lưu tự do hóa thị trường tài chính.

 

Thực ra, đây là những luận điểm quan trọng mà Kissinger phải công minh tranh luận để làm sáng tỏ các tồn đọng lịch sử. Tất cả đều không được Kissinger đề cập đến, nhất là về hậu quả đạo đức của các quyết định. Hướng về tương lai, Kissinger hy vọng là chế độ trọng dụng nhân tài sẽ được hồi sinh. Muốn đạt được mục tiêu này, một nền giáo dục nhân văn phải lấy lại ý nghĩa cao đẹp của nó và các chính trị gia thuộc thế hệ mới nên được tuyển dụng do các kỹ năng chính trị và ngoại giao.

 

Cụ thể, Kissinger đề cao tầm quan trọng của các môn triết học, chính trị, địa lý nhân văn, ngôn ngữ hiện đại, lịch sử, lý thuyết kinh tế, văn học và kể cả các nghiên cứu về các thời cổ đại cổ điển. Tất cả sẽ xây dựng thành một nền tảng kiến thức, mà trước đây từng là các chuyên đề cơ bản trong việc đào tạo cho chính giới về tinh thần lãnh đạo.

 

Mặt khác, Kissinger còn liệt kê thêm các đòi hỏi đạo đức: chính giới cần hành động  cân nhắc, hướng về tương lai và quan tâm đến các quyền của người khác.

 

Thoạt nhìn, các lời kêu gọi này có vẻ là lỗi thời và đạo đức giả. Nhưng hiện nay, Donald Trump, Marine LePen và Boris Johnson đã gây bao sóng gió trên chính trường và đang làm cho nền dân chủ các nước phương Tây lâm nguy. Do đó, không thể xem các lời yêu cầu này của Kissinger là vô lý, cho dù bản thân Kissinger cũng là một chính khách đạo đức giả không kém bất cứ ai.

 

Bằng chứng là Kissinger nhận giải Nobel Hòa bình sau khi ký kết Hiệp định Paris 1973. Thực tâm của Kissinger khi ký là chỉ muốn tạo điều kiện cho quân đội Mỹ tháo chạy, không đích thực mang lại hoà bình cho Việt Nam vì cũng tiên đoán là chế độ Việt Nam Cộng Hoà không bao lâu sau sẽ sụp đổ. Kết quả là Cộng sản phản bội Hiệp định Paris, chiến thắng bằng quân sự 1975 và người dân Miền Nam không có hoà bình như mơ ước.

 

Về sau nhìn lại, đó là một công trình mà Kissinger thất bại và trớ trêu thay, lại được ghi công. Đáng lý ra, với liêm khiết đạo đức, Kissinger phải tự thú là đã bị Lê Đức Thọ lừa đảo nên không thể hãnh diện và can đảm để trả lại giải Nobel Hoà bình. Tất cả đều không xảy ra.

-- Đỗ Kim Thêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuốn tiểu thuyết xoay quanh một cuộc giết người bí ẩn trên một hòn đảo Ottoman hư cấu nơi sinh sống của cả người Thổ Nhĩ Kỳ và người Hy Lạp, từ đó đưa ra các suy ngẫm về sức mạnh của các quốc gia hiện đại. Một số nhân vật quen thuộc của Pamuk: Abdulhamid II, một quốc vương đấu tranh để cứu đế chế Ottoman, có chung xu hướng chuyên quyền và Hồi giáo với tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ, Recep Tayyip Erdogan. Một người khác hao giống người sáng lập đất nước, Kemal Ataturk. Đối với một cuốn tiểu thuyết lịch sử, "Nights of Plague" lại mang tính chất khá đương đại.
"Trong quan niệm của tôi, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của nhà phê bình là đẩy những nghi vấn và những phê phán ấy đến tận cùng. Để văn hoá văn chương không bị biến thành một tín ngưỡng với những giáo điều và những khuôn sáo cũ kỹ, chật chội làm thui chột ý chí và khả năng sáng tạo của người cầm bút. Và để văn học luôn luôn là một hành trình tìm kiếm và thử nghiệm liên tục.”
Thơ của Lưu Diệu Vân khẳng định bản thân phụ nữ trong thời gian. Nhà thơ tự lên giây đồng hồ cho chính mình. She, Self-Winding, tựa đề tuyển tập thơ Anh ngữ mới nhất của cô (Ugly Duckling Presse, September 2022), phản ảnh những tranh đấu và hòa giải giữa thế giới bên ngoài và đời sống nội tâm, giữa phong tục và trào lưu mới, quá khứ và hiện tại, lãng mạn và thực tiễn. Thơ của cô cũng hàm súc di sản chiến tranh và kinh nghiệm di dân.
Tập sách không phải tập hợp một mớ lý thuyết, mà dẫn dụng những ứng dụng cụ thể và những kết quả đạt được, hoặc lớn hoặc nhỏ, rất đáng khích lệ.
“Mảnh Da Vàng viết ra rồi đốt bỏ, viết đi viết lại không biết bao nhiêu lần. Viết lén lút trong trại giam Sông Măng sát biên giới Miên. Viết trong nỗi kinh hoàng ở trại tập trung Hóc Môn. Viết sau cơn sốt cuồng điên trên đồi gió hú trại tập trung Long Giao. Viết nắn nót trên những trang giấy rẻ tiền trong căn nhà tranh vách đất vùng kinh tế mới. Viết trên giường bệnh viện Bình Dương tồi tàn. Viết trong nỗi cô đơn ròng rã dưới ngọn đèn dầu le lói nơi miền quê nghèo...” (MDV, tr. 9)...
Mùa Địa Ngục là một truyện dài thể loại fiction gồm ba truyện vừa kết hợp (Tam Bộ Khúc/Trilogy): Một Thời Điêu Linh, Mùa Địa Ngục, và Vàng Rơi Mênh Mông. Ba truyện có một nền chung: Cuộc chiến tranh Nam Bắc Việt Nam, và mỗi truyện có những nhân vật với phần đời riêng nhưng lại liên hệ với nhau...
Thơ Nguyễn Hàn Chung vốn rất khó đọc! Từ “Nghịch Lưu Của Tuổi”, rồi qua “Dự Cảm Rời” mấy năm trước và mới đây trên các trang thơ của “Lục Bát Tản Thần” là một chuỗi dài những vần thơ khó đọc!
Về các mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã đạt đến một tình trạng tồi tệ như thế nào, năm cuốn sách mới đây đã đưa ra năm lời giải thích dị biệt, nhưng thường trùng lặp nhau. Nhìn chung, các cuốn sách cho rằng, mặc dù Mỹ có thể đã làm quá mức về các chính sách trước đây trong tinh thần cam kết, nhưng sẽ là một sai lầm nguy hiểm nếu Mỹ đi quá xa trong chiều hướng khác...
Nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự, từ Đà Lạt, gửi cho chúng tôi truyện ngắn sau đây, cũng là một chương trong tiểu thuyết của anh, cuốn Trên đỉnh thanh xuân, viết từ năm 1967, khi anh còn là sinh viên ở Huế, trong phong trào Phật giáo miền Trung, những năm sôi động...
Nguyễn Hưng Quốc (tên thật là Nguyễn Ngọc Tuấn) được biết đến như là một nhà phê bình văn học ở hải ngoại. Vào cuối thập niên 1980s, Nguyễn Hưng Quốc xuất hiện trên văn đàn hải ngoại một cách sáng chói vì anh đem lại một luồng gió mới trong phê bình văn học. Những ai đã chán với cách phê bình văn học theo cảm tính về một tác phẩm, nhiều sáo ngữ về bối cảnh, và nghiêng về những câu chuyện cá nhân tác giả, đột nhiên tìm thấy một cách phê bình văn học mới mẻ, có phương pháp luận rõ ràng, có khoa học tính, và có khi cả định lượng. Trước đây, đã có một nhà phê bình nổi tiếng là Đặng Tiến ở Pháp, nay chúng ta có thêm một Nguyễn Hưng Quốc. Nhà văn Võ Phiến cho rằng "Người xứ An Nam ta chưa có nhà lí luận văn học nào mà viết đẹp như Nguyễn Ngọc Tuấn. Nhiều đoạn đọc mà mê." Quả đúng như vậy.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.