Hôm nay,  

Bùi Vĩnh Phúc và sách mới: 9 Khuôn Mặt, 9 Phong Khí Văn Chương

15/03/202408:44:00(Xem: 4420)

Bùi Vĩnh Phúc và sách mới:

9 Khuôn Mặt, 9 Phong Khí Văn Chương 
 

Phan Tấn Hải

Nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc vừa ấn hành tác phẩm “9 Khuôn Mặt, 9 Phong Khí Văn Chương” – nội dung là viết về Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên.

Cuốn sách dày 440 trang, chữ nhỏ, gồm các nhận định của Bùi Vĩnh Phúc (BVP) về các nhà văn, nhà thơ đã nuôi lớn một thời tuổi trẻ của tôi. Họ là những cây đa bóng mát của tôi, không chỉ ngoài đời và trong văn học, mà cũng là cả trong các giấc mơ những ngày tôi còn ôm sách tới trường. Tôi đã nói với Bùi Vĩnh Phúc như thế, rằng những người này, trong sách của bạn, thiệt sự là cả một cánh đồng tuổi thơ của tôi. Và tôi nghĩ rằng không thể nào viết đầy đủ về các khuôn mặt văn học này.
  
blank                               Bùi Vĩnh Phúc (trái) và Phan Tấn Hải (phải)

Đặc biệt, khi độc giả mở ra từng trang tác phẩm phê bình văn học này, thực ra cũng là đọc về “10 Khuôn Mặt, 10 Phong Khí Văn Chương” nơi khuôn mặt thứ 10 là Bùi Vĩnh Phúc, hiện ra lấp ló nơi từng trang, và đôi khi nơi từng dòng nhận định. Nơi đây, BVP có một dấu ấn riêng, BVP không phải là một robot để phê bình văn học theo một công thức có sẵn. BVP có một phong thái phê bình riêng.
  

Tôi nghĩ rằng Bùi Vĩnh Phúc có một văn phong phê bình rất phức tạp. Trong khi đọc, đôi khi, tôi nghĩ rằng tôi cần phải mở tự điển ra xem vài chữ. Văn phong rất phức tạp, rất học giả của Bùi Vĩnh Phúc hiển lộ ngay ở  nhan đề hai bài tiểu luận về Thanh Tâm Tuyền, nơi trang 19:
 

Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền (*) (hay “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”


 Và, ở trang 59 với bài có nhan đề:
  

Cái Tôi ẩn mật và Dương bản Thiên nhiên ngày vây hãm trong Thơ ở đâu xa của Thanh Tâm Tuyền (hay “Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền”

 
Hình như chưa ai đặt nhan đề các bài tiểu luận kiểu như thế. Chỉ riêng về cách đặt nhan đề các bài tiểu luận, Bùi Vĩnh Phúc đã tự tách biệt ra, với một tiếng nói riêng. Nơi cách khác, chúng ta có thể nhớ rằng, nhà thơ Du Tử Lê ưa đưa vào thơ các ký tự không phát âm được, nếu chúng ta đọc thơ như bình thường, BVP cũng có các ký tự bất thường (như dấu / hay hoa thị, mở ngoặc và đóng ngoặc) và các chữ trong lĩnh vực khác, thí dụ, như chữ “âm bản” và “dương bản” trong lĩnh vực nhiếp ảnh, vào nhan đề.
 

Một cách tự nhiên, Bùi Vĩnh Phúc đã xem văn phê bình của anh là một cách làm thơ. Tương tự, nhan đề bài viết về Mai Thảo được Bùi Vĩnh Phúc đặt ở trang 101 là:
 

Văn chương Mai Thảo: biên địa của cảm xúc và cái đẹp, giao thoa với ý thức về đời sống

 
Trong làng báo, nhiều nhà báo không ưa gặp các bài có nhan đề dài, vì dàn trang không vừa mắt, và hơi bất bình thường so với thói quen đời thường. Nhưng Bùi Vĩnh Phúc không phải nhà báo. Bên cạnh vai trò phê bình văn học, họ Bùi còn là một học giả, một nhà giáo chuyên về giảng  "dạy Anh văn và Ngôn ngữ & Văn hóa Việt Nam tại đại học Long Beach và Golden West, California, từ 1985" trong nhiều thập niên. Đúng ra, có nhiều bài, Bùi Vĩnh Phúc đặt nhan đề ngắn gọn, ngắn tới mức các nhà báo sẽ ưa thích khi trình bày trang báo, thí dụ như bài ở trang 397:
 

Thời gian trong thơ Tô Thùy Yên

 
Tuy nhiên, dù đặt nhan đề ngắn hay dài, Bùi Vĩnh Phúc đã hiển lộ ra một niềm vui riêng, vượt ra ngoài công thức. Thí dụ, một nhan đề rất dài và rất nhiều chất thơ trong một bài BVP viết về Phạm Công Thiện, ở trang 296:
 

Đêm và ngày, và Phạm Công Thiện, và bốn mươi bảy năm trôi qua trên mặt đất (Đọc và nhìn lại Phạm Công Thiện qua “Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất”)

 
Tất cả những cách đặt nhan đề của nhà phê bình họ Bùi đều cân nhắc từng chữ một, không có nhiều tính báo chí (tập trung vào thông tin), nhưng là nhịp tim, là tiếng thơ của anh. Thí dụ, nhan đề bài ở trang 371:
 

Tô Thùy Yên: thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người.

 
 Đó là một nhan đề rất thơ, và có phong thái của cái nhìn hiện sinh về thi ca, gợi nhớ tới hình ảnh của thần thoại Hy Lạp, nơi Sisyphus bị các vị thần trừng phạt phải mãi mãi đẩy một tảng đá lên đồi chỉ để rồi tảng đá luôn rơi trở lại chân đồi, và chu kỳ đó lập đi, lập lại mãi. Thơ như một vinh dự lầm than, nhưng cứ làm thơ mãi.
 

Văn phê bình của Bùi Vĩnh Phúc tự có chất thơ riêng. Chúng ta chú ý trong Lời Đầu Sách, nơi trang 12, họ Bùi lập đi lập lại chữ "ca" như một nốt nhạc được nhấn mạnh trong chuỗi nhạc (hoan ca, hạnh ca, tình ca, hùng ca và bi ca của con người) vào đầu trang sách, và để mở ra một thế giới thơ mộng, trích:
 

"Văn học miền Nam Việt Nam, trong suốt hai mươi năm rực rỡ và đầy ánh sáng của nó, đã sản sinh ra biết bao tài năng, làm phong phú và hãnh diện cho dòng văn học dân tộc nói chung, và cho dòng văn học miền Nam nói riêng, trong cái bối cảnh lịch sử của đất nước. Những khuôn mặt tài tuấn, những ngòi bút tài hoa, đã làm bừng sáng cảnh quan phong thổ miền Nam, đất nước cỏ hoa miền Nam, nơi đó, những nét truyền thống của dân tộc, hoà cùng hương hoa và ánh sáng thế giới, và những âm vang của thời đại, đã làm dội lên những khúc hoan ca, hạnh ca, tình ca, hùng ca và bi ca của con người. Tất cả đã phản ánh cái hương vị và nguồn sống của cuộc đời."
 

Viết như thế, Bùi Vĩnh Phúc trở thành một nhạc sĩ, biến trang giấy thành các nốt nhạc riêng, trong một sắp xếp riêng. Trong cương vị của người đọc sách, tôi dự kiến sẽ viết thêm một vài bài về tuyển tập phê bình văn học này. Bởi vì một niềm vui lớn là viết về những hình ảnh mà tôi yêu thích. Sách của Bùi Vĩnh Phúc hiện đã bán trên mạng: https://www.barnesandnoble.com/w/9-khuon-mat-9-phong-khi-van-chuong-bui-vinh-phuc/1144699558

  blank Bìa sách “9 Khuôn Mặt, 9 Phong Khí Văn Chương” 

Nơi đây, xin trích Lời Vào Sách để độc giả cảm nhận về văn phong Bùi Vĩnh Phúc, một chất thơ, một khúc nhạc, một chuỗi lý luận, và một tấm lòng rất mực yêu quý văn học -- như sau.
 

Lời Vào Sách

Đây là một cuốn sách viết về chín khuôn mặt văn học miền Nam Việt Nam. Chín khuôn mặt đặc thù. Chín phong khí văn chương. Chín bờ cõi chữ nghĩa mà cái ánh sáng cùng khí hậu văn học đặc biệt của miền Nam nước Việt, với thổ ngơi, màu sắc và khí chất riêng của nó, đã hun đúc nên và làm toả ánh.
 

    Miền Nam, nhưng không phải là chỉ là do người miền Nam, chỉ cất lên từ một chất giọng miền Nam. Mà nó là một chất giọng Việt Nam đặc biệt, của cả ba miền Nam Trung Bắc hợp lại. Miền Nam, ở đây, chỉ là một không gian địa lý, một cõi bờ, một địa vực, của đất Việt. Những tiếng nói ấy gặp nhau trong một khung cảnh, một giai đoạn lịch sử đặc thù, làm nên cái chất giọng, cái “phong khí” chung của một dòng văn học, của một “điệu” văn chương. Rồi, sau thời điểm 1975, cái “điệu” văn chương ấy lại toả đi khắp chốn. Nó tiếp tục được cất tiếng trên những vùng thổ ngơi không phải là đất Việt. Nhưng nó làm “hồi cố” những âm vang xưa. Nó làm lấp lánh cái hồi quang của một trời đất cũ. Và nó cũng hoà quyện trong nó cái ánh sắc của những vùng không gian mới.
 

    Tại sao lại chín mà không phải là mười, mười hai, mười lăm, hay thậm chí nhiều hơn nữa?

    Đó là một câu hỏi hợp lý.

    Văn học miền Nam Việt Nam, trong suốt hai mươi năm rực rỡ và đầy ánh sáng của nó, đã sản sinh ra biết bao tài năng, làm phong phú và hãnh diện cho dòng văn học dân tộc nói chung, và cho dòng văn học miền Nam nói riêng, trong cái bối cảnh lịch sử của đất nước. Những khuôn mặt tài tuấn, những ngòi bút tài hoa, đã làm bừng sáng cảnh quan phong thổ miền Nam, đất nước cỏ hoa miền Nam, nơi đó, những nét truyền thống của dân tộc, hoà cùng hương hoa và ánh sáng thế giới, và những âm vang của thời đại, đã làm dội lên những khúc hoan ca, hạnh ca, tình ca, hùng ca và bi ca của con người.  Tất cả đã phản ánh cái hương vị và nguồn sống của cuộc đời.
 

    Việc chỉ chọn, trong biết bao kỳ hoa dị thảo nơi cánh rừng ấy, chín khuôn mặt, chín phong khí văn chương, không phải vì đây là một con số đẹp. Mà chỉ là vì giới hạn của con người. Với một vòng tay nhỏ bé, ôm không thể trọn, giữ không thể đầy, người viết cuốn sách này không có tham vọng trình hiện, trong tác phẩm giới hạn của mình, tất cả cái khung cảnh rực rỡ tưng bừng của cả một dòng văn học.  Tác giả chỉ hy vọng, qua chín khuôn mặt và phong khí được trình bày, giới thiệu, phê bình và nhận định trong cuốn sách này, có thể làm ánh lên đâu đó cái đẹp, cái rực, cái mềm mại, cái cương ngạnh, cái bay lượn, và cái phong nhiêu, sinh động của cả một vùng trời đất, cỏ hoa, một vùng văn hoá.
 

    Những khuôn mặt, phong khí văn chương được trình bày trong cuốn sách này, dù sao, và trong một góc cạnh nào đó, cũng có thể đại diện cho những ánh sắc khác nhau của vùng văn học được khảo sát. Đó là miền Nam Việt Nam. (Còn văn học miền Bắc, trong giai đoạn này, lại là một địa vực, một bờ cõi khác, với cái khuôn mặt riêng và đặc thù của nó.) Khởi đi và được nuôi dưỡng trong hai mươi năm chiến tranh (1954-1975) trên đất đai, thổ ngơi nước Việt, rồi tiếp tục bừng nở, mang trong trái tim và lồng ngực mình tiếng đập và hơi thở của thời đại, cùng với mùi hương cuộc đời trên những hành trình lữ thứ, trong nội tâm hay ngoài Việt Nam, những nhà văn, nhà thơ Việt được giới thiệu ở đây đã tiếp tục làm lớn mạnh tiếng nói và tâm hồn dân tộc.
 

    Trong chín người được chọn này, có ba người khởi đi từ nhóm Sáng Tạo (Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên), một người từ Vấn Đề (Vũ Khắc Khoan), một người từ Bách Khoa (Võ Phiến), một người từ Giữ Thơm Quê Mẹ (Phạm Công Thiện), và ba người còn lại, từ những “phong thổ” khác nhau, là Bùi Giáng, Nguyễn Xuân Hoàng, và Nguyễn Mộng Giác. Tôi thử đặt một số tác giả trên trong một vài nhóm để chúng ta có cơ hội nhớ tưởng lại những hành trình ban đầu của họ, cái không gian viết của họ, cái tiếng nói và, phần nào, quan điểm, thái độ của những diễn đàn đó trong dòng văn chương, văn học miền Nam thời ấy. Nhưng thực ra, tất cả những tác giả nói trên đều đã sống, và mở rộng cái sống cùng cái viết mình, không chỉ trong những không gian viết ban đầu như tôi đã thử nhắc đến. Họ đã hoà lưu vào cái sống, cái viết của toàn cõi miền Nam. Rồi, sau đó, mở rộng ra, họ đã hoà lưu vào những thuỷ lưu lớn của thời đại, của thế giới, của văn chương con người.
 

    Mỗi nhà văn, nhà thơ sẽ được giới thiệu, trình bày, nhận định, đánh giá với một, hai bài viết của tác giả quyển sách này, qua những mốc thời gian khác nhau, với những dạng thể khác nhau, và từ những góc độ, tâm thế, những hoàn cảnh, tâm cảnh khác nhau. Sau đó, mỗi người lại được tiếp tục giới thiệu qua chính chữ viết, “dấu vân tay” của họ, với một hay hai bài/đoạn văn mà tác giả sách này cảm thấy là tiêu biểu cho tâm hồn, ngòi bút, và phong cách, khí chất họ. Lại có trường hợp người viết sách nhìn một tác giả như một khối đá quý, rồi đập vỡ nó ra làm nhiều mảnh để thấy những “sắc diện”, những mặt sáng, mặt cắt khác nhau. Từ đó, tất cả và mỗi tác giả được nhìn ngắm, phân tích từ những giác độ khác biệt, được nắm bắt, chiếu sáng từ những góc hình, góc quay đặc thù. Một hướng trình bày như thế, nhìn một cách nào đó, rất không truyền thống. Dù sao, hy vọng điều đó cho ta nhìn ra cái phong khí, cái “chất”, cái cốt cách tinh thần riêng của từng nhà văn, nhà thơ được khảo sát.
 

    Một vài tác giả đã từng được tác giả sách này giới thiệu trước đó nhiều năm. Và, như thế, có một vài tiểu luận được sử dụng lại ở đây. Dù sao, ngay cả đối với những bài viết này, chúng cũng được tôi xem và nhuận sắc lại, không nhiều thì ít. Được viết lại, viết thêm, được triển khai mở rộng, hoặc được kết hợp với những bài viết mới, cái nhìn mới. Tất cả lại được đặt vào một bố cục riêng của quyển sách này, với những dẫn nhập, dẫn giải mới.
 

    Mỗi người đọc có một cái nhìn riêng của mình. Mỗi người đọc có cái mã văn hoá riêng trong việc tiếp cận chữ viết và tâm hồn các tác giả mà họ đọc. Điều đó làm nên cái lấp lánh kỳ bí của không gian văn học. Nó cũng làm nên cái chiều rộng và chiều sâu diệu kỳ, uyên áo nơi không gian tâm hồn con người khi đến với các tác phẩm văn chương.
 

    Đời sống văn học, cũng như tâm hồn con người—đặc biệt, ở đây, tâm hồn người đọc—là thế. Đó là một thế giới kỳ diệu, đặc thù, và đầy ánh sắc, gam mầu, đầy hợp âm, xao động.
 

    Tôi mong cuốn sách này, dù sao, cũng có thể cho người đọc thấy được, ở những giác độ nào đó, cái khuôn mặt, cái phong cách và khí chất của những con người cầm bút được nhắc đến. Tôi mong, qua họ, người đọc có thể thấy hay cảm nhận được cái sức sống đẹp tươi và đầy màu sắc của một vùng trời đất hoa cỏ quê hương, nói riêng, và của cõi sống văn chương con người, nói chung.
 

    Cái cõi sống ấy, người viết và người đọc, ở nơi nào và thời nào, tôi tin, cũng đều muốn hướng đến. Trong đó, tất cả—người viết và người đọc, cái viết và cái đọc, cái được viết và cái được đọc—đều hạnh phúc quây quần và ca hát hạnh ngộ cùng nhau (*).

 

Bùi Vĩnh Phúc

Tustin Ranch, California,

Tháng Mười Một, 2023.

__________

Chú thích:

 

(*)  Người viết và người đọc, cái viết và cái đọc, thì rõ ràng, dễ phân biệt. Nhưng cái được viết và cái được đọc thì, có lẽ, khó phân biệt hơn. Chúng ta có thể nghĩ: cái được viết ra cũng sẽ chính là cái được đọc, cái đọc được, từ độc giả, những người đọc. Nhưng, nếu ngẫm nghĩ kỹ, đây là hai cái khác nhau. Sự khác nhau sẽ là hiển nhiên. Cái phải lưu ý là mức độ khác nhau của chúng. 

    Mỗi người viết và mỗi người đọc đều có cho mình một cái mã riêng khi bước vào “cuộc”. Cuộc viết và cuộc đọc. Cái mã rất riêng ấy được tạo nên từ tất cả những gì làm nên con người viết và con người đọc. Đặc biệt là những gì làm nên cái nét mặt tinh thần, cái dáng vẻ của tâm hồn họ. Những kinh nghiệm khác biệt trong cuộc sống, những lớp vỉa văn hoá, những phù sa của những trải nghiệm cuộc đời, sự giáo dục, sự va vấp, đụng chạm của họ, ở những góc độ, những khía cạnh và ở những hoàn cảnh, những tầng mức khác nhau, tất cả sẽ làm nên cái mã sống, nhìn, cảm và viết, đọc khác nhau. Người viết viết với sự ý thức và, có những khi, với cái vô thức của họ. Người đọc cũng đọc với cái mã riêng, từ cái kinh nghiệm sống, cùng cái cảm nhận, thức nhận, cái hiểu, và với tâm hồn, trái tim riêng của mình. Những cái viết và cái đọc như thế, có thể không đi cùng nhịp, không cùng song hành, đồng bộ. Nhưng giữa cái đọc và cái viết ấy, có sự giao thoa, chia sẻ, hoặc đồng cảm, tương đắc, tương thông ở những mức độ và khía cạnh nào đấy.

    Từ đó, cái gọi là chữ nghĩa, văn chương, được hoà quyện, thẩm thấu, đào sâu, khúc xạ, ánh xạ, loang xa, lấp lánh, và bay lên.  Và đó chính là những “phép lạ” của văn chương, văn học. Và mỗi cái viết, cái đọc rất riêng ấy, đều làm nên hạnh phúc và đớn đau riêng trong mỗi một con người.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngôn Ngữ đặc biệt về “tác giả tác phẩm”, cuốn này hân hạnh được giới thiệu đến quý bạn đọc, một cây bút tài danh đã viết và thành công trong hầu hết trong nhiều bộ môn văn học nghệ thuật qua bốn thập niên. Tác giả đó là nhà văn Trịnh Y Thư. Ông tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội, trưởng thành tại Sài Gòn, du học và hành nghề điện tử viễn thông tại Hoa Kỳ cho đến khi hưu trí vào năm 2018. Như đã thượng dẫn, Trịnh Y Thư là một người đa tài, chúng tôi xin giới thiệu đại khái về từng bộ môn ông đã sinh hoạt. Trong bộ môn văn, ông đã viết và phổ biến rộng qua sách in từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dịch, khảo cứu, nhận định văn học, tùy bút, tạp bút, tạp luận. Với bộ môn thi ca, ông có một số ít bài theo phong cách vần điệu nhưng không cùn mòn. Chúng tôi nghĩ ông rất hứng thú và chuyên về trường ca, hoặc những bài viết có số lượng câu không quá ngắn hoặc quá dài, và ông cũng sử dụng cả lối thơ Hokku với chỉ 3 câu cho từng khổ.
Trong số truyện ngắn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” trong tập truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc có lẽ là tác phẩm được độc giả nhắc đến nhiều nhất. Dựa trên câu chuyện cơ cực có thật của chính gia đình mình trong thời toàn quốc kháng chiến chống Pháp, Doãn Quốc Sỹ đã kể lại với một cách nhìn nhân bản, kết thúc với đoạn văn được những người hâm mộ trích lại nhiều nhất: “…Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn; ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành…”
"Dòng Đời", tác phẩm thứ sáu của nhà văn Lê Lạc Giao, lấy cảm hứng từ sự tuôn chảy của một dòng sông để phác họa nhiều dòng chảy khác sâu kín, phức tạp, đa chiều trong nội tâm của Hiểu, nhân vật chính trong tiểu thuyết. Hiểu lạc trôi theo vận nước, bước qua những tàn tích của lịch sử, qua những bóng ma quá khứ, những khoảnh khắc cô đơn tuyệt vọng để tìm lại bản thân, hội nhập, đối diện với những thử thách mới trong hiện tại và tương lai.
Suy nghĩ về thơ, Đặng Toản đã viết: “ ... Thơ chấp nhận mọi sự đẽo gọt và không đẽo gọt, từ vi tế đến thô ráp, từ dân gian đến bác học và các thành phần tham gia vào chiếu thơ có mặt phu xe và tể tướng, gã ăn mày và đại phú hộ...” ( Nghĩ về thơ, trang 258). Do đó sẽ càng thú vị hơn, khi ta bắt gặp những hình ảnh thơ, những câu thơ với những ngôn ngữ “nghề nghiệp” song cũng đầy mới lạ và ấn tượng của “gã thợ tiện’ bên những tia laser cắt... ống sắt!
“Ai là tiểu thuyết về sự mất tích của bản thể, của những con người, trên sân khấu của đời sống như một viện bảo tàng. Ai ngẫu nhiên được hình thành như bản tẩu pháp (fugue) về hành trình trốn chạy, lưu vong, tỵ nạn, hoá thân của con người trong thời hiện đại. Ai là sự kết hợp các hình thức sáng tạo trong tiểu thuyết như phim ảnh, tường thuật, truyện lồng trong truyện (metafiction), để tạo một không gian cho các ý niệm phản chiếu lẫn nhau, trong màn triển lãm nghệ thuật sắp đặt (installation) dùng ý tưởng. làm chất liệu. Ai mở ra sân chơi cho trò chơi ngôn ngữ đang cần khai phá thêm và khai quật lại. Ai là một thử nghiệm về thời gian để người đọc tự tìm kiếm câu trả lời cho họ.”
Tập truyện ngắn “Chuyện cũ phù dung trấn” ( CCPDT), là tác phẩm thứ 16 của Tiểu Lục Thần Phong ( TLTP ). Sách dày 362 trang, gồm 36 truyện ngắn, với những suy tư trăn trở về cuộc sống nơi quê nhà và cả nơi xứ xa, mà tác giả hiện đang sinh sống. Thấm đẫm những hiện thực của cuộc sống và gắn kết cả chuyện đời, chuyện đạo, gây ấn tượng và những suy ngẫm cho bạn đọc...
Tôi đã yêu mến và ngưỡng mộ gần như tất cả các nhân vật được viết trong tuyển tập này. Trong đó có những người là bậc thầy vô cùng cao tột của tôi: Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, và Thầy Tuệ Sỹ. Những vị khác về nhiều mặt cũng là những bậc thầy của tôi, nghĩa là tôi nhận thấy có phương diện nào đó để học từ họ, nhờ cơ duyên thân cận hoặc nhờ gặp trong làng văn chương. Thí dụ, Giáo sư Trần Huy Bích là đỉnh cao về Hán học, về nghiên cứu thơ và cổ văn, với những nghiên cứu về nhà thơ Vũ Hoàng Chương cực kỳ thơ mộng và thâm sâu.
Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác. Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.
Thật sự, ở một mức độ nào đó, người đi vào quyển sách đều có thể nhận ra ít nhiều, ở chỗ này hay chỗ khác, qua những góc quay khác nhau, với những mức độ đậm nhạt khác nhau, tất cả các dự cảm vừa được trình bày ở trên. Nhưng nếu nghĩ đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, hay một tiểu thuyết chiến tranh, chúng ta sẽ ngộ nhận tác giả. Tiểu thuyết này, với tính chất và cái nhìn đặc thù của tác giả, không hề có mục đích ấy. Lịch sử có ở đó, cùng với khuôn mặt kinh hoàng, gian trá, điên đảo, và tàn bạo của chiến tranh. Nhưng đây là một cuốn tiểu thuyết chỉ lấy lịch sử làm một cái nền với những gam màu rất mờ nhạt, và, dĩ nhiên, nổi bật lên vẫn là một màu đỏ nhờ nhờ, điên quái, bất tín và bất-khả-tín, khi thì chỉ ươn ướt, chỗ lại đặc quánh những vết thương làm mủ của lịch sử..
Tập sách nhắc đến tiệm phở gần đầu đường Nghĩa Phát, vừa từ đường Bành Văn Trân rẽ vào, là tiệm của bác Huyền, người cùng giáo họ Long Cù, xứ Trực Chính với thày u tôi, là những gia đình công giáo theo các cha di cư vào Nam. Đó là tiệm phở đầu tiên nằm trong giáo xứ Nghĩa Hoà. Được sinh ra và lớn lên trong giáo xứ này, tôi muốn chia sẻ thêm về những quán phở ở Nghĩa Hoà. Sau phở bác Huyền, vào đầu thập niên 1970 có một tiệm phở nữa cũng trên đường Nghĩa Phát gần đầu nhà thờ. Còn theo đường Nghĩa Hoà phía cuối nhà thờ, đi vào đến ngã tư ông Nghìn có tiệm phở của ông giáo Chung.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.